Quốc hội sẽ xem xét các báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023; kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022
Sau 5 năm triển khai nhiều nội dung của Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu quả, góp phần kiến tạo những động lực mới cho thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Chính sách thống trị của nhà Thanh đã gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với Trung Quốc là. A. Chính sách thống trị ngoại tộc, làm cho chế độ phong kiến Trung Quốc ngày càng trì trệ. B. Chính sách áp bức dân tộc, làm cho các mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng
Đại diện chủ đầu tư An Gia cho biết, chính sách cam kết thuê lại với một số sản phẩm thuộc khu phức hợp Westgate đang hấp dẫn khách mua ở thực lẫn nhà đầu tư. Chính sách áp dụng cho dòng căn hộ 3 phòng ngủ, shophouse, villa. Thời gian cho thuê kéo dài từ 12 đến 18 tháng
Tuy nhiên, chính sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh.
mSu6Adx. Nhà Thanh là một triều đại do dòng họ Ái Tân Giác La Aisin Gioro ở Mãn Châu thành lập. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm tại phía bắc bán đảo Triều Tiên và phía Đông Bắc Trung Quốc. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa khu vực Viễn Đông Nga với Đông Bắc Trung Quốc. Nhà Thanh cũng là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc và Mông Cổ. Triều đại này từng được tộc người Nữ Chân đứng đầu bởi Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng với quốc hiệu Đại Kim vào năm 1616 tại Mãn Châu - sử sách gọi là nhà Hậu Kim. Cho đến năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu thành Đại Thanh, và mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á cũng như các khu vực xung quanh. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của Trung Quốc 1644-1659, Đài Loan 1683, Mông Cổ 1691, Tây Tạng 1751, Tân Cương 1759; hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu. Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối với Trung Quốc, hoà nhập với văn hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ đã giảm sút trong thế kỷ 19, và phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi loạn và những thất bại trong chiến tranh, nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế kỷ 19. Nhà Thanh bị lật đổ sau cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với nhiều sự phản kháng buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế cuối cùng, Phổ Nghi, ngày 12 tháng 2 năm 1912. Sự thành lập nhà nước Mãn Châu Nhà Thanh là một triều đại do người Mãn Châu thành lập, một dân tộc thiểu số ở một số nước Đông Á hiện nay. Vốn là những người du mục bán khai, người Mãn Châu dần chiếm ưu thế tại vùng hiện ở phía đông nam Nga. Quốc gia Mãn Châu được Nỗ Nhĩ Cáp Xích Nurhaci thành lập vào đầu thế kỷ 17. Ban đầu chỉ là một nước chư hầu của nhà Minh, ông tự tuyên bố mình là hoàng đế của nước Hậu Kim năm 1609. Cùng năm ấy, ông phát triển các nguồn tài nguyên kinh tế, con người của đất nước cũng như kỹ thuật bằng cách thu nhận những người Hán sống tại vùng Mãn Châu. Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập thủ đô tại Thẩm Dương tiếng Mãn Châu Mukden, nhưng năm sau ông phải chịu một thất bại quân sự lớn đầu tiên trước một vị tướng nhà Minh là Viên Sùng Hoán. Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết năm đó. Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là việc tạo lập hệ thống Bát Kỳ, theo đó mọi người dân Mãn Châu đều thuộc một trong tám "Kỳ", đó vừa là các đơn vị dân sự vừa mang tính chất quân sự. Các Kỳ được đặt tên như vậy bởi vì mỗi nhóm được phân biệt bởi một lá cờ khác nhau. Người kế tục Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực Huang Taiji, tiếp tục tiến hành công việc dựa trên các nền móng được người cha để lại, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó thông qua một hệ thống định mức phân bổ. Khi Lâm Đan Hãn Ligdan Khan, vị đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết trên đường tới Tây Tạng năm 1634, con trai ông Ngạch Triết Ejei đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế Nguyên cho Hoàng Thái Cực. Năm 1636 Hoàng Thái Cực đổi tên nước thành Thanh, có nghĩa là thanh khiết, biểu hiện những tham vọng đối với vùng Mãn Châu. Cái tên Thanh được lựa chọn bởi vì tên của nhà Minh 明 được cấu thành từ các ký hiệu của chữ nhật 日, mặt trời và nguyệt 月, Mặt Trăng, đều liên quan tới hỏa mệnh. Chữ Thanh 清 được cấu thành từ chữ căn bản là thuỷ 水, nước và từ chỉ màu xanh 青, cả hai đều là mệnh thuỷ. Trong thuyết Ngũ hành, thì thủy khắc được hỏa, ám chỉ việc nhà Thanh sẽ đánh tan toàn bộ nhà Minh. Trong một loạt những chiến dịch quân sự, Hoàng Thái Cực đã khuất phục được vùng Nội Mông và Triều Tiên trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang. Tuyên bố Thiên mệnh Bắc Kinh đã bị một liên minh những lực lượng nổi loạn do Lý Tự Thành cầm đầu vào cướp phá. Nhà Minh chính thức kết thúc khi Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế Chu Do Kiểm, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Minh treo cổ tự tử tại Môi Sơn cạnh Tử Cấm Thành. Sau khi chiếm Bắc Kinh vào tháng 4 năm 1644, Lý Tự Thành dẫn đầu một đội quân mạnh gồm người chiến đấu với Ngô Tam Quế, vị tướng chỉ huy lực lượng đồn trú lính bảo vệ Sơn Hải Quan 山海關 của nhà Minh. Sơn Hải Quan là cửa ải có vị trí trọng yếu ở phía đông bắc Vạn lý trường thành cách Bắc Kinh năm mươi dặm về phía đông bắc và trong nhiều năm lực lượng đồn trú tại đây luôn phải chiến đấu ngăn chặn người Mãn Châu bên ngoài thủ đô Bắc Kinh. Sau khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, giết cha và cướp thiếp của Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế đã quyết định đánh mở cổng thành đầu hàng nhà Thanh, liên minh với hoàng tử Đa Nhĩ Cổn, khi ấy đang làm nhiếp chính cho Hoàng đế Thuận Trị mới lên sáu, con trai của Hoàng Thái Cực mới chết năm trước. Liên minh này đánh bại các lực lượng nổi loạn của Lý Tự Thành trong trận chiến ngày 27 tháng 5 năm 1644. Quá trình tiêu diệt các lực lượng trung thành với nhà Minh, những kẻ nhòm ngó ngôi báu và những kẻ phiến loạn khác kéo dài thêm mười bảy năm nữa. Vị vua cuối cùng của nhà Minh, Vĩnh Lịch, chạy trốn tới Miến Điện, tức Myanma hiện nay, nhưng bị bắt và giao lại cho lực lượng viễn chinh của nhà Thanh do Ngô Tam Quế cầm đầu. Vĩnh Lịch bị hành quyết tại tỉnh Vân Nam đầu năm 1662. Khang Hi và sự củng cố quyền lực Hoàng đế Khang Hi khoảng 1662 - 1722 lên ngôi khi mới tám tuổi. Trong những năm cầm quyền đầu tiên ông được bà của mình là Thái hoàng Thái hậu Hiếu Trang giữ quyền nhiếp chính trợ giúp rất nhiều. Người Mãn Châu nhận ra rằng việc kiểm soát "Thiên mệnh" là một nhiệm vụ hết sức to lớn. Sự rộng lớn của lãnh thổ Mãn Châu đồng nghĩa với việc triều đình chỉ có đủ quân đội để đồn trú tại những thành phố chính và xương sống của mạng lưới phòng ngự dựa chủ yếu vào những người lính nhà Minh đã đầu hàng. Hơn nữa, các tướng lĩnh nhà Minh đã đầu hàng trước đó cũng được lựa chọn theo mức độ đóng góp vào việc thành lập nhà Thanh, được phong tước trở thành các lãnh chúa phong kiến phiên vương, và được quyền cai quản những vùng đất rộng lớn ở phía nam Trung Quốc. Người đứng đầu số đó là Ngô Tam Quế, được trao các tỉnh Vân Nam và Quý Châu, trong khi các vị tướng khác như Thượng Khả Hỉ và Cảnh Trọng Minh được giao cai quản các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Ba người này được người Trung Quốc gọi chung bằng cái tên Tam Phiên. Sau một thời gian, ba vị lãnh chúa này và những vùng đất đai của họ cai quản dần trở thành hình thức tự trị. Cuối cùng, vào năm 1673, Thượng Khả Hỉ thỉnh cầu Khang Hi, bày tỏ ước vọng muốn được trở về quê hương tại tỉnh Liêu Đông và chỉ định con trai làm người kế nhiệm. Vị hoàng đế trẻ cho phép ông ta về nghỉ nhưng từ chối trao chức vụ cho người con trai. Trước sự kiện đó, hai vị tướng kia cũng quyết định xin về hưu để thử phản ứng của Khang Hi, cho rằng ông ta sẽ không dám liều xúc phạm đến họ. Hành động này mang lại kết quả trái ngược với mong đợi của họ khi vị hoàng đế trẻ tuổi lừa phỉnh họ bằng cách chấp nhận các yêu cầu và đoạt lại ba vùng đất đó cho triều đình. Thấy mình bị tước đoạt quyền lực, Ngô Tam Quế cho rằng ông ta không còn lựa chọn nào khác ngoài cách làm loạn. Ngô Tam Quế cùng Cảnh Trọng Minh và con trai Thượng Khả Hỉ là Thượng Chi Tín thành lập liên minh. Cuộc nổi dậy diễn ra sau đó kéo dài tám năm. Ở thời phát triển mạnh nhất, lực lượng nổi dậy đã tìm cách mở rộng tầm kiểm soát của mình về hướng bắc tới tận sông Trường Giang. Dù vậy, cuối cùng triều đình nhà Thanh tiêu diệt được cuộc nổi dậy và kiểm soát được toàn bộ miền nam Trung Quốc. Trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện này được gọi là Loạn Tam Phiên. Để củng cố đế chế, Khang Hi đích thân chỉ huy một loạt các chiến dịch quân sự tấn công Tây Tạng, người Dzungar; và sau này, ông đánh cả Đế quốc Nga, nhưng phần lớn bị Pyotr I tấn công dữ dội cho tới chân Vạn lý trường thành. Ông dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình với vị Hãn Mông Cổ là Gordhun Chuẩn Cát Nhĩ nhằm tránh một cuộc xung đột quân sự. Các chiến dịch quân sự của Gordhun chống lại nhà Thanh đã chấm dứt, giúp tăng cường sức mạnh đế chế. Đài Loan cũng bị các lực lượng nhà Thanh chinh phục năm 1683 từ tay con trai của Trịnh Kinh là Trịnh Khắc Sảng cháu nội Trịnh Thành Công, người đã đoạt lại quyền kiểm soát Đài Loan từ tay thực dân Hà Lan. Tới cuối thế kỷ 17, Trung Quốc đạt tới đỉnh cao quyền lực của mình kể từ thời nhà Minh. Khang Hi cũng cho phép nhiều nhà truyền giáo thuộc các Giáo hội Thiên chúa tới Trung Quốc để truyền đạo. Dù họ không đạt được mục đích cải đạo cho đa số dân Trung Quốc, Khang Hi vẫn cho họ sống yên ổn tại Bắc Kinh. Các hoàng đế Ung Chính và Càn Long Hai giai đoạn trị vì của Hoàng đế Ung Chính trị vì 1723 - 1735 và con trai ông Hoàng đế Càn Long trị vì 1735 - 1796 đánh dấu đỉnh cao phát triển quyền lực nhà Thanh. Trong giai đoạn này, nhà Thanh cai quản 13 triệu kilômét vuông lãnh thổ. Sau khi Khang Hi qua đời vào mùa đông năm 1722, con trai thứ tư của ông là Ung Thân vương Dận Chân lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Ung Chính. Ung Chính là một nhân vật gây nhiều tranh cãi bởi vì có những lời đồn đại về việc ông cướp ngôi, và trong những năm cuối cùng thời Khang Hi ông đã tham gia vào nhiều cuộc tranh giành quyền lực chính trị với các anh em của mình. Ung Chính là một nhà cai trị chăm chỉ và quản lý đất nước mình bằng bàn tay sắt. Bước đầu tiên của ông nhằm tăng cường sức mạnh triều đình là đưa hệ thống thi cử quốc gia trở về các tiêu chuẩn trước đó. Năm 1724 ông đàn áp thẳng tay những trao đổi tiền bất hợp pháp, vốn bị các quan chức triều đình lợi dụng để kiếm chác. Những người vi phạm vào luật mới về tài chính đều bị cách chức hay trong những trường hợp nghiêm trọng, sẽ bị hành quyết. Ung Chính rất tin tưởng vào các vị quan người Hán, và đã chỉ định nhiều người được ông che chở vào những chức vụ quan trọng. Một trong những trường hợp điển hình là Niên Canh Nghiêu đã được phong làm người chỉ huy chiến dịch quân sự tại Thanh Hải, thay cho người em trai của Ung Chính là hoàng tử Dận Trinh. Tuy nhiên, những hành động kiêu ngạo của Niên khiến ông mất chức năm 1726. Trong thời gian cai trị của Ung Chính, sức mạnh của đế quốc được củng cố và đạt tới mức cao nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhiều vùng đất ở phía tây bắc được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia. Một lập trường cứng rắn hơn được thực hiện nhằm mục đích loại bỏ các quan lại tham nhũng, và Ung Chính là người đã lập ra Quân Cơ Xứ, trên thực tế là một bộ máy nhằm đảm bảo sự yên ổn của triều đình. Hoàng đế Ung Chính mất năm 1735. Con trai ông Bảo Thân Vương Hoằng Lịch lên nối ngôi trở thành Hoàng đế Càn Long. Càn Long nổi tiếng là một vị tướng có tài. Nối ngôi ở tuổi 24, Càn Long đích thân chỉ huy một cuộc tấn công quân sự gần Tân Cương và Mông Cổ. Các cuộc nổi loạn và khởi nghĩa tại Tứ Xuyên và nhiều vùng ở phía nam Trung Quốc cũng được dẹp yên. Khoảng bốn mươi năm kể từ khi Càn Long lên ngôi, chính phủ nhà Thanh đối mặt với tình trạng tham nhũng nặng nề trở lại. Hòa Thân một vị quan trong triều, là kẻ tham nhũng nhất vương quốc. Ông ta đã bị con trai Càn Long, Hoàng đế Gia Khánh 1796 - 1820 buộc phải tự sát. Mở rộng đế chế Sau khi chiếm Trung Hoa của nhà Minh, các hoàng đế nhà Thanh đã từng bước mở rộng đế chế của mình thông qua các cuộc chiến tranh và sát nhập. Họ đã chiếm thêm được Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan, một phần Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan ngày nay và cùng với Mông Cổ, Triều Tiên trước đó vào đế chế của mình. Họ đã thất bại trước nước Đại Việt và Miến Điện khi tiến xuống Đông Nam Á vào nửa sau thế kỷ 18, cho tới khi Đế quốc Nga xâm chiếm Trung Á vào thế kỉ 19. Nổi loạn, bất ổn và áp lực ngày càng tăng Một quan điểm thông thường về Trung Quốc ở thế kỷ 19 cho rằng đây là giai đoạn mà sự kiểm soát của nhà Thanh suy yếu đi và sự thịnh vượng cũng sút giảm. Quả vậy, Trung Quốc phải chịu đựng nhiều cuộc xung đột xã hội, đình đốn kinh tế và sự bùng nổ dân số đặt ra những vấn đề lớn đối với việc phân phối lương thực. Các nhà sử học đã đưa ra nhiều sự giải thích cho những sự kiện trên, nhưng ý tưởng căn bản cho rằng quyền lực nhà Thanh, sau một thế kỷ, đã phải đối mặt với những vấn đề bên trong và áp lực bên ngoài khiến cho hình mẫu chính phủ, tình trạng quan liêu và hệ thống kinh tế của Trung Quốc thời ấy không sao giải quyết nổi. Cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc vào giữa thế kỷ 19 là ví dụ đầu tiên phản ánh tư tưởng chống Mãn Châu đe dọa sự ổn định của nhà Thanh, một hiện tượng còn tăng thêm trong những năm sau này. Tuy nhiên, số lượng thương vong kinh khủng của cuộc khởi nghĩa này - tới 30 triệu người - và sự tàn phá nghiêm trọng các vùng đất rộng lớn ở phía nam đất nước vẫn còn bị che mở bởi một cuộc xung đột khác. Dù không đẫm máu bằng, nhưng thế giới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài qua những tư tưởng và kỹ thuật của nó đã có một ảnh hưởng rất lớn và cuối cùng mang lại tác động có tính cách mạng đối với một triều đình nhà Thanh đang ngày càng suy yếu và dao động. Một trong những vấn đề lớn ở thế kỷ mười chín của Trung Quốc là cách thức đối phó với các nước khác bên ngoài. Trước thế kỷ mười chín, Đế chế Trung Quốc là cường quốc bá chủ châu Á. Theo học thuyết đế quốc của họ, hoàng đế Trung Quốc có quyền cai trị toàn bộ "thiên hạ". Tùy theo từng giai đoạn và từng triều đại, họ hoặc cai trị trực tiếp các vùng lãnh thổ xung quanh hoặc buộc các nước đó phải nộp cống cho mình. Các nhà sử học thường đưa ra quan niệm cơ bản của đế chế Trung Quốc, "đế chế không biên giới", khi đề cập tới thực trạng trên. Tuy nhiên, trong thế kỷ mười tám, các đế chế châu Âu dần mở rộng ra khắp thế giới, khi các nước châu Âu phát triển các nền kinh tế hùng mạnh dựa trên thương mại hàng hải. Mặt khác, đế chế Trung Quốc rơi vào tình trạng tù hãm sau nhiều thế kỷ dẫn đầu thế giới. Tới cuối thế kỷ 18, các thuộc địa của châu Âu đã được lập nên ở gần Ấn Độ và trên những hòn đảo hiện là các vùng thuộc Indonesia, trong khi Đế chế Nga đã sáp nhập các vùng phía bắc Trung Quốc. Ở thời các cuộc chiến tranh Napoleon, Anh Quốc từng muốn thành lập liên minh với Trung Quốc, gửi các hạm đội tàu tới Hồng Kông mang theo quà tặng gửi tới vị Hoàng đế, gồm nhiều vật phẩm được chế tạo bởi những kỹ thuật và phong cách nghệ thuật mới nhất của châu Âu thời kỳ đó. Khi các phái đoàn Anh nhận được một lá thư từ Bắc Kinh giải thích rằng Trung Quốc không cảm thấy ấn tượng trước những thành tựu của châu Âu và cho rằng triều đình Trung Quốc sẵn lòng nhận sự kính trọng của vua George III nước Anh, chính phủ Anh cảm thấy bị xúc phạm và từ bỏ mọi kế hoạch nhằm thiết lập các quan hệ với nhà Thanh. Khi các cuộc chiến tranh Napoleon chấm dứt năm 1815, thương mại thế giới tăng trưởng nhanh chóng, và bởi vì dân số đông đảo của Trung Quốc là một thị trường vô hạn cho hàng hóa châu Âu, thương mại giữa Trung Quốc và các thương gia châu Âu phát triển trong những năm đầu của thế kỷ mười chín. Khi thương mại tăng trưởng, sự thù nghịch cũng gia tăng giữa các chính phủ châu Âu và nhà Thanh. Năm 1793, nhà Thanh chính thức cho rằng Trung Quốc không cần tới các hàng hóa châu Âu. Vì thế, các lái buôn Trung Quốc chỉ chấp nhận dùng bạc làm vật trao đổi cho hàng hóa của họ. Nhu cầu to lớn của châu Âu đối với các hàng hóa Trung Quốc như tơ, trà, và đồ sứ chỉ có thế được đáp ứng khi các công ty châu Âu rót hết số bạc họ có vào trong Trung Quốc. Tới cuối những năm 1830, các chính phủ Anh và Pháp rất lo ngại về các kho dự trữ kim loại quý của họ và tìm cách đưa ra một phương thức trao đổi mới với Trung Quốc - và cách tốt nhất là đầu độc Trung Quốc bằng thuốc phiện. Khi nhà Thanh tìm cách cấm buôn bán thuốc phiện năm 1838, Anh Quốc đã tuyên chiến với Trung Quốc. Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất cho thấy sự lạc hậu của quân đội Trung Quốc. Dù có quân số áp đảo so với người Anh, kỹ thuật và chiến thuật của họ không thể so sánh với các cường quốc kỹ thuật thời ấy. Hải quân nhà Thanh, gồm toàn các tàu gỗ không phải là đối thủ của các tàu chiến bọc thép chạy hơi nước của Hải quân Hoàng gia Anh. Binh sĩ Anh sử dụng súng có rãnh xoắn và pháo binh vượt trội dễ dàng tiêu diệt các lực lượng nhà Thanh trên chiến trường. Việc nhà Thanh đầu hàng năm 1842 đánh dấu một tai họa mang tính quyết định và nhục nhã của Trung Quốc. Hiệp ước Nam Kinh, buộc họ phải trả khoản bồi thường 21 triệu lạng bạc và nhượng đảo Hồng Kông cho Anh Quốc. Nó cũng cho thấy tình trạng bất ổn định của chính phủ nhà Thanh và khiến cho nhiều cuộc khởi nghĩa chống chế độ diễn ra. Các cường quốc phương tây, chưa hài lòng với Hiệp ước Nam Kinh, chỉ miễn cưỡng hỗ trợ nhà Thanh trong việc tiêu diệt các cuộc nổi dậy Thái bình thiên quốc và cuộc khởi nghĩa Niệm Quân. Thu nhập của Trung Quốc giảm sút rõ rệt trong thời gian chiến tranh khi nhiều vùng đất canh tác rộng lớn bị hủy hoại, hàng triệu người thiệt mạng và số lượng binh lính đông đảo cũng như trang bị vũ khí cho họ để chiến đấu. Năm 1854, Anh Quốc tìm cách đàm phán lại Hiệp ước Nam Kinh, thêm vào các điều khoản cho phép các thương gia người Anh đi lại trên sông ngòi Trung Quốc và lập một đại sứ quán thường trực của họ tại Bắc Kinh. Điều khoản cuối cùng này xúc phạm tới chính quyền nhà Thanh và họ đã từ chối ký kết, gây ra một cuộc chiến tranh khác giữa hai bên. Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai chấm dứt với một thất bại nặng nề khác của Trung Quốc, khiến cho Nhà Thanh phải ký hiệp ước Thiên Tân với Đế quốc Anh Sự cai trị của Từ Hi Thái Hậu Cuối thể kỷ 19, một nhà lãnh tụ mới xuất hiện là Từ Hi Thái Hậu. Xuất thân chỉ là một phi tần của Hàm Phong 1850-1861, nhưng nhờ sinh ra Thái tử Tái Thuần nên sau khi Hàm Phong chết và vị hoàng tử nhỏ tuổi lên ngôi lấy hiệu là Đồng Trị, Từ Hi đã ngấm ngầm tiến hành cuộc đảo chính để tước quyền nhiếp chính của đại thần Túc Thuận theo di chiếu của tiên hoàng. Bà nắm quyền nhiếp chính và trở thành người đứng đầu không chính thức của Trung Hoa suốt 47 năm. Bà còn được biết tới bởi sự nhúng tay vào chính sự kiểu "Thùy liêm thính chính" tức can thiệp chính trị từ sau hậu đài. Tới những năm 1860, triều đình nhà Thanh đã tiêu diệt được các cuộc nổi dậy nhờ sự hỗ trợ của lực lượng dân quân do tầng lớp quý tộc tổ chức. Sau đó, chính phủ Thanh tiếp tục giải quyết vấn đề hiện đại hoá, từng được đưa ra trước đó với Phong trào tự cường. Nhiều đội quân hiện đại được thành lập gồm cả Hạm đội Bắc Hải; tuy nhiên Hạm đội Bắc Hải đã bị tiêu diệt trong Chiến tranh Trung Nhật 1894-1895, khiến cho ngày càng xuất hiện nhiều kêu gọi cải cách sâu rộng hơn nữa. Đầu thế kỷ 20, nhà Thanh rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu tiếp tục theo đuổi cải cách, họ sẽ khiến giới quý tộc bảo thủ mất lòng, nếu ngăn cản việc đó họ lại khiến những người theo đường lối cách mạng tức giận. Nhà Thanh tìm cách đi theo con đường trung dung, nhưng việc này lại khiến tất cả các bên cùng bất mãn. Mười năm trong giai đoạn cai trị của Hoàng đế Quang Tự 1875 - 1908 là những năm Thanh Đình cố gắng tiến hành biến pháp và cải cách nhằm phát triển đất nước. Năm 1898 Quang Tự nỗ lực tiến hành Cuộc cải cách một trăm ngày Bách nhật duy tân, còn được biết dưới cái tên "Mậu Tuất biến pháp", đưa ra các luật mới thay thế cho các quy định cũ đã bị bãi bỏ. Những nhà cải cách, với đầu óc tiến bộ hơn như Khang Hữu Vi được tin tường và những người có đầu óc thủ cựu như Lý Hồng Chương bị gạt bỏ khỏi các vị trí quan trọng. Nhưng các ý tưởng mới đã bị Từ Hi dập tắt, Quang Tự bị nhốt trong cung. Từ Hi chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của riêng mình. Tại buổi lễ sinh nhật lần thứ 60, bà đã chi 30 triệu lạng bạc để trang trí và tổ chức, số tiền đã định dùng để cải tiến vũ khí cho Hạm đội Bắc Hải. Năm 1901, sau khi Đại sứ Đức bị ám sát, Liên quân tám nước cùng tiến vào Trung Quốc lần thứ hai. Từ Hi phản ứng bằng cách tuyên chiến với tám nước, nhưng chỉ một thời gian ngắn đã để mất Bắc Kinh và cùng với Hoàng đế Quang Tự chạy trốn tới Tây An. Để đòi bồi thường chiến phí, Liên quân đưa ra một danh sách những yêu cầu đối với chính phủ nhà Thanh, gồm cả một danh sách những người phải bị hành quyết khiến cho Lý Hồng Chương, thuyết khách số một của Từ Hi, buộc phải đi đàm phán và Liên quân đã có một số nhượng bộ đối với các yêu cầu của họ. Chính phủ nhà Thanh và xã hội Chính trị Bộ máy hành chính quan trọng nhất của nhà Thanh là Đại hội đồng, là một cơ quan gồm hoàng đế và các quan lại cao cấp. Nhà Thanh có đặc trưng bởi một hệ thống chỉ định kép, theo đó mỗi vị trí trong chính phủ trung ương đều có một người Hán và một người Mãn Châu cùng quản lý. Ví dụ, ở thời Hoàng đế Càn Long các thành viên của gia đình ông được phân biệt bởi một loại trang phục với biểu tượng hình tròn ở phía sau lưng, trong khi người Hán chỉ được mặc trang phục với một biểu tượng hình vuông; điều này có nghĩa là bất kỳ người lính nào trong cung đều có thể dễ dàng phân biệt các thành viên gia đình hoàng gia mà chỉ cần quan sát từ phía sau. Đối với Mông Cổ, Tây Tạng và Đông Turkestan, giống như các triều đại trước đó, nhà Thanh vẫn giữ quyền kiểm soát đế quốc với việc hoàng đế kiêm vai trò Hãn Mông Cổ, người bảo trợ của Phật giáo Tây Tạng và người bảo vệ cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chính sách của nhà Thanh đã thay đổi với việc thành lập tỉnh Tân Cương năm 1884. Để đối phó với các hành động quân sự của Anh và Nga tại Tân Cương và Tây Tạng, nhà Thanh đã phái các đơn vị quân đội tới và họ đã đương đầu khá tốt với quân Anh. Sự từ bỏ địa vị của hoàng đế Thanh đương nhiên dẫn tới tình trạng tranh cãi về địa thế của các lãnh thổ tại Tây Tạng và Mông Cổ. Quan điểm của những người theo chủ nghĩa quốc gia Tây Tạng và Mông Cổ thời ấy cũng như hiện tại cho rằng bởi vì họ đã trung thành với nhà Thanh thì khi nhà Thanh từ bỏ vị thế của mình họ không còn bổn phận gì nữa đối với nước Trung Hoa mới. Lập trường này bị Trung Hoa Dân Quốc và sau này là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bác bỏ dựa trên các yêu sách của họ cho rằng trên thực tế các vùng này từng là các vùng đất thuộc các triều đại Trung Quốc từ trước cả nhà Thanh. Bất kỳ thuộc sắc tộc nào, người Hán, người Mãn Châu, người Mông Cổ hay những nhóm thiểu số khác, tất cả họ đều đã thành lập lên các triều đại với tính chất Hán trung tâm Sino-centric, và cho rằng lịch sử cũng như tính chính thống của các lãnh thổ này đều là một phần của đế quốc Trung Quốc trong hơn hai ngàn năm qua. Các cường quốc phương Tây chấp nhận lý thuyết sau này, một phần với mục đích tránh tranh cãi với Trung Quốc. Quan liêu Hệ thống hành chính của nhà Thanh dựa trên hệ thống trước đó của nhà Minh. Ở tình trạng phát triển nhất, chính phủ Thanh tập trung quanh Hoàng đế với tư cách là người cầm quyền tối cao chỉ huy sáu bộ, mỗi bộ do hai Thượng thư đứng đầu và được hỗ trợ bởi bốn Thị lang. Tuy nhiên, không giống như hệ thống của nhà Minh, chính sách căn bản của nhà Thanh quy định rằng việc chỉ định chức vụ được phân chia giữa quý tộc Mãn Châu và quan lại Hán, những người đã vượt qua các kỳ thi tuyển ở mức độ cao nhất của nhà nước. Hầu như trong toàn bộ thời gian tồn tại của nhà Thanh, bộ máy quan lại của Hoàng đế đều có sự hiện diện của Quân Cơ Xứ, một cơ quan chuyên trách các vấn đề quân sự và tình báo, nhưng sau này nó lại chịu trách nhiệm giám sát mọi bộ của chính phủ. Các vị quan quản lý Quân Cơ Xứ nắm luôn vai trò Tể tướng, và một vài người trong số họ từng được chỉ định làm người đứng đầu Quân Cơ Thủ Phụ. Sáu bộ và các lĩnh vực quản lý của họ như sau * Lại bộ - Quản lý nhân sự hành chính cho mọi chức vụ dân sự - gồm cả đánh giá, bổ dụng, và thải hồi. Bộ này cũng chịu trách nhiệm lập "danh sách danh dự". * Hộ bộ - Dịch nghĩa theo từ Trung Quốc, "hộ" có nghĩa là "gia đình". Hầu như trong toàn bộ thời cai trị của nhà Thanh, nguồn thu chính của chính phủ có từ thuế do các chủ đất đóng và các khoản phụ khác từ độc quyền nhà nước như các vật dụng gia đình thiết yếu là muối và trà. Vì thế, với ưu thế áp đảo của trồng trọt ở thời nhà Thanh, 'gia đình' là gốc cơ bản của nguồn tài chính quốc gia. Bộ này chịu trách nhiệm thu thuế và quản lý tài chính cho chính phủ. * Lễ bộ - Bộ này chịu trách nhiệm mọi vấn đề liên quan tới nghi thức lễ tân tại triều đình, gồm cả không chỉ những lễ thờ cúng tổ tiên định kỳ và nhiều vị thánh thần khác của Hoàng đế với tư cách "Thiên tử" con trời, để đảm bảo sự hoạt động trơn tru của đế chế mà còn chịu trách nhiệm cả vấn đề tiếp đãi các sứ đoàn từ các nước tới nộp cống. Quan niệm Trung Quốc về lễ, theo Khổng Tử dạy, được coi là một phần của giáo dục. Từng có quan niệm rằng một học giả phải "tri thư, đạt lễ" có nghĩa là phải học rộng và cư xử đúng lễ nghi. Vì thế, một chức năng khác của bộ này là giám sát các hệ thống thi cử dân sự trên toàn quốc để lựa chọn quan lại. Bởi vì dân chủ là một vấn đề chưa từng được biết tới ở thời tiền Cộng hòa tại Trung Quốc, các triết lý Khổng Tử mới coi các cuộc thi cử của nhà nước là con đường để chính thống hóa một chế độ bằng cách cho phép nhân tài tham gia vào chính quyền độc đoán và khép kín trước đó. * Binh bộ - Không giống thời nhà Minh trước đó, vốn kiểm soát toàn bộ các lĩnh vực quân sự, Binh bộ nhà Thanh có quyền lực rất hạn chế. Đầu tiên các Kỳ binh quân chủ lực nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Hoàng đế và các hoàng tử người Mãn Châu và Mông Cổ, khiến cho bộ này chỉ có quyền lực đối với các lộ quân địa phương. Hơn nữa, các chức năng của bộ hầu như chỉ đơn thuần là hành chính - các chiến dịch và các đợt diễn tập quân sự được chỉ huy và giám sát bởi Hoàng đế, đầu tiên thông qua hội đồng quản lý người Mãn Châu và sau này là Quân Cơ Xứ. * Hình bộ - Hình bộ xử lý mọi vấn đề pháp luật, gồm cả giám sát các tòa án và nhà tù. Bộ luật hình sự nhà Thanh khá yếu kém so với các hệ thống luật pháp hiện đại hiện nay, bởi vì nó không có sự phân biệt giữa các nhánh hành pháp và lập pháp trong chính phủ. Hệ thống pháp luật có thể mâu thuẫn, và khá nhiều khi tỏ ra độc đoán, bởi vì Hoàng đế cai trị bằng nghị định và là người đưa ra phán quyết cuối cùng đối với mọi vấn đề luật pháp. Các hoàng đế có thể và đã đảo ngược các phán quyết của các tòa án cấp dưới tùy theo từng lúc. Sự công bằng trong đối xử cũng là một vấn đề dưới hệ thống phân biệt chủng tộc do chính phủ Mãn Châu áp dụng đối với cộng đồng đa số người Hán. Để giảm bớt các vấn đề không thỏa đáng đó và giữ cho dân chúng sống yên ổn, nhà Thanh áp dụng một hệ thống luật hình sự rất khắc nghiệt đối với người Hán, nhưng không tới mức nghiêm khắc quá đáng như ở các triều đại trước đó. * Công bộ - Công bộ xử lý mọi dự án xây cất của triều đình gồm các cung điện, đền đài và sửa chữa các đường thủy cũng như các kênh tiêu lũ. Họ cũng chịu trách nhiệm đúc tiền. Ngoài sáu bộ kể trên, có một Lý Phiên Viện và đây là cơ quan chỉ riêng có ở nhà Thanh. Cơ quan này ban đầu chịu trách nhiệm điều hành quan hệ với các đồng minh Mông Cổ. Khi đế chế mở rộng thêm, nó nhận thêm các công việc hành chính đối với tất cả các nhóm thiểu số sống trong và ngoài đế chế, gồm cả những tiếp xúc đầu tiên với Nga - khi ấy còn được coi là một quốc gia triều công. Cơ quan này hoạt động như một bộ thực sự và vị quan đứng đầu cũng có mức hàm tương đương. Tuy nhiên, ban đầu những ứng cử viên lãnh đạo nó chỉ là người thuộc dân tộc Mãn Châu và Mông Cổ. Dù Lễ bộ và Lý Phiên Viện có một số trách nhiệm chung trong ngoại giao, chúng vẫn không được sáp nhập vào nhau. Điều này xuất phát từ quan điểm truyền thống của đế quốc coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới và mọi người nước ngoài đều là những kẻ mọi rợ chưa khai hóa không xứng đáng có tư cách ngoại giao tương đương với họ. Chỉ tới năm 1861 - một năm sau khi thua trận trong "Chiến tranh nha phiến lần thứ hai" trước liên minh Anh-Pháp-chính phủ nhà Thanh mới lùi bước trước sức ép của nước ngoài và lập ra một bộ ngoại giao thực sự được gọi theo một cái tên dài lê thê là "Tổng lý các quốc sự vụ nha môn", hay nói gọn là "Tổng lý nha môn". Ban đầu cơ quan này được dự định tạm thời sử dụng các viên chức thuyên chuyển từ Quân Cơ Xứ theo kiểu làm việc bán thời gian. Tuy nhiên, khi việc giải quyết vấn đề với những người nước ngoài ngày càng phức tạp và thường xuyên, cơ quan ngày càng mở rộng và trở nên quan trọng, và càng có ưu thế khi được sử dụng tiền thu từ thuế hải quan. Dù triều đình nghi ngờ về mọi thứ liên quan tới nước ngoài, văn phòng này đã trở thành một trong những bộ có nhiều quyền lực nhất bên trong chính phủ nhà Thanh. Quân sự * Những sự khởi đầu và sự phát triển đầu tiên Sự phát triển của hệ thống quân đội nhà Thanh có thể được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt trước và sau cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc 1850 - 64. Ban đầu quân đội nhà Thanh dựa theo hình thức Bát Kỳ Mãn Châu do Nỗ Nhĩ Cáp Xích phát triển thành một cách thức tổ chức xã hội Mãn Châu căn cứ trên tổ chức các nhóm bộ tộc. Tổng cộng có tám nhóm bộ tộc được gọi là Kỳ cờ, mỗi kỳ có một màu chủ đạo riêng biệt. Thứ tự ưu tiên của các kỳ như sau Chính Hoàng Vàng, Tương Hoàng Vàng có viền, ví dụ Vàng viền đỏ, Chính Bạch Trắng, Chính Hồng Đỏ, Tương Bạch Trắng viền, Tương Hồng Đỏ viền, Chính Lam Xanh và Tương Lam Xanh viền. Chính Hoàng kỳ, Tương Hoàng Kỳ và Chính Bạch kỳ thường được gọi là "Thượng Tam Kỳ" và nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế. Chỉ những người Mãn Châu thuộc Thượng Tam Kỳ mới được đích thân Hoàng đế lựa chọn vào đội bảo vệ riêng của mình. Những kỳ còn lại được gọi là "Hạ Ngũ Kỳ" và được chỉ huy bởi các hoàng tử người Mãn Châu trực hệ của Nurhachi theo chế độ cha truyền con nối, và thường được gọi theo nghi thức là "Thiết mạo tử vương" Các hoàng tử mũ sắt hay các "Hòa Thạc". Họ cùng nhau tạo thành một hội đồng quản lý quốc gia Mãn Châu cũng như bộ tư lệnh quân đội có tên gọi là Hòa Thạc Bội Cần. Năm 1730 Hoàng đế Ung Chính thành lập Quân Cơ Xứ ban đầu để chỉ huy trực tiếp các hoạt động hàng ngày của quân đội nhưng dần dần Quân Cơ Xứ lãnh một số trách nhiệm hành chính và quân sự khác của quân đội và chịu trách nhiệm tập trung hóa quyền lực vào triều đình. Tuy nhiên, các Hòa thạc vẫn tiếp tục đóng vai trò có ảnh hưởng to lớn trong các hoạt động chính trị và quân sự của triều đình nhà Thanh cũng như công việc cai trị của Hoàng đế Càn Long. Khi quyền lực nhà Thanh mở rộng về phía bắc Vạn lý trường thành trong những năm cuối triều nhà Minh, hệ thống các Kỳ được con trai và là người thừa kế của Nurhachi là Hoàng Thái Cực phát triển thêm các kỳ Mông Cổ và các kỳ Hán. Khi họ kiểm soát được những vùng lãnh thổ cũ của nhà Minh, các Kỳ đội có quy mô khá nhỏ đó được tăng cường bởi Lục doanh quân vốn có quân số lớn gấp ba các Kỳ. Lục doanh quân là các đội quân người Hán. Các đội quân này được điều khiển bởi một Ban chỉ huy gồm cả các đô thống Lục doanh quân và Kỳ binh. Các Kỳ và Lục doanh là quân thường trực, được chính phủ trả lương. Ngoài ra, các quan lại địa phương từ mức tỉnh trở xuống tới mức xã vẫn giữ một lực lượng dân quân không chính quy làm các nhiệm vụ cảnh sát và cứu nạn. Các đội dân quân đó thường nhận được một khoản lương nhỏ hàng năm lấy từ kho bạc địa phương cho hoạt động của mình. Họ ít khi được huấn luyện quân sự và nếu có được huấn luyện thì cũng không được coi là đội quân chiến đấu. * Hòa bình và trì trệ Các Kỳ đội được phân chia theo dòng dõi dân tộc, có nghĩa theo người Mãn Châu và người Mông Cổ. Dù vẫn có một nhánh thứ ba gồm những kỳ binh người Hán từng theo người Mãn Châu trước khi nhà Thanh được thành lập, những kỳ binh Hán không bao giờ được chính phủ đối xử bình đẳng so với hai nhánh kia vì việc họ gia nhập muộn hơn và vì dòng giống Hán Trung Quốc của họ. Chuyên môn quân sự của họ - chủ yếu trong bộ binh, pháo binh và công binh, cũng bị coi là xa lạ so với truyền thống sử dụng kị binh của những người du mục Mãn Châu. Sau khi hoàn thành công cuộc chinh phục, các vai trò quân sự của kỳ binh Hán nhanh chóng bị Lục doanh quân thâu tóm. Các Kỳ binh Hán hoàn toàn chấm dứt tồn tại sau khi Hoàng đế Ung Chính cải cách lại các Kỳ nhằm mục tiêu giảm chi phí triều đình. Các nguồn gốc quân sự-xã hội của hệ thống Kỳ binh có nghĩa là dân cư bên trong mỗi nhánh của hệ thống Kỳ binh cùng như các nhánh phụ của nó tuân theo hệ thống cha truyền con nối và cứng nhắc. Chỉ trong những hoàn cảnh đặc biệt được sự đồng ý theo nghị định triều đình việc di chuyển xã hội giữa các kỳ mới được thực hiện. Trái lại Lục doanh quân ban đầu được dự định xây dựng trở thành một lực lượng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, trong những giai đoạn hòa bình lâu dài ở Trung Quốc từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19, việc tuyển dụng lính từ các cộng đồng nông nghiệp đã giảm sút, một phần vì lập trường chống đối của tầng lớp trí thức Khổng giáo mới với nghề binh. Nhằm giữ vững sức mạnh, Lục quân bắt đầu biến đổi, dần trở thành một chế độ kiểu cha truyền con nối. Lực lượng Kỳ binh đông đảo tới gần ngàn quân của người Mãn Châu được chia thành; một nửa được chỉ định vào Cấm Lữ Bát Kỳ đóng quân tại Bắc Kinh. Họ vừa đóng vai trò đội quân đồn trú của chính phủ nhà Thanh vừa là lực lượng chiến đấu. Số còn lại được chia vào nhiệm vụ canh gác các thành phố quan trọng ở Trung Quốc. Họ được gọi là Trú Phòng Bát Kỳ. Tầng lớp cai trị Mãn Châu, nhận thức rõ số lượng nhỏ nhoi của mình so với người Hán, đã áp dụng một chính sách nghiêm ngặt về phân biệt nguồn gốc giữa người Mãn Châu và Mông Cổ với người Hán vì sợ rằng sẽ bị người Hán đồng hoá. Chính sách này được áp dụng trực tiếp tới các đội quân Kỳ đồn trú, đa số họ chiếm giữ một vùng có tường bao kín xung quanh bên trong các thành phố đồn trú của họ. Bên trong các thị trấn chật hẹp như Thanh Châu, một thị trấn pháo đài mới được xây dựng làm nơi sinh sống cho quân Kỳ đồn trú và gia đình họ. Bắc Kinh là thủ đô của đế chế, Nhiếp chính Dorgon Đa Nhĩ Cổn buộc toàn bộ dân Trung Quốc phải dời đi sống tại các khu ngoại thành phía nam sau này được gọi là "Ngoại Thành". Thành phố có tường bao ở phía bắc được gọi là "Nội thành" được phân chia cho Bát Kỳ Mãn Châu còn lại, mỗi Kỳ chịu trách nhiệm canh gác khu của mình bên trong Nội Thành bao quanh khu dinh thự Tử Cấm Thành. Chính sách bố trí quân đội các Kỳ làm quân đồn trú tại các địa phương không phải để bảo vệ mà là để ngăn chặn sự lo ngại của người Mãn Châu thông qua việc nô dịch hóa dân chúng bằng lợi thế kỵ binh của họ. Vì thế, sau một thế kỷ hòa bình và hiếm khi được huấn luyện trên chiến trường, các Kỳ binh Mãn Châu dần đánh mất khả năng chiến đấu. Thứ hai, trước cuộc chinh phục, các Kỳ binh Mãn Châu là một 'công dân' quân đội, và các thành viên của nó là các nông dân và người chăn thả gia súc Mãn Châu bị buộc phải đi lính cho đất nước trong thời gian chiến tranh. Quyết định của nhà Thanh buộc các Kỳ binh phải trở thành một lực lượng chuyên nghiệp khiến cho nhà nước phải chu cấp cho mọi nhu cầu của họ, và với sự tham nhũng xảy ra từ binh lính cho đến sĩ quan khiến họ càng nhanh chóng biến chất không còn đáp ứng được yêu cầu của một đội quân chiến đấu. Điều tương tự cũng xảy ra trong Lục doanh quân. Ở thời bình, việc đi lính chỉ đơn giản là để kiếm thêm một khoản thu nhập. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc kiếm tiền. Tham nhũng tăng lên khi chỉ huy các đơn vị địa phương đề xuất tài chính và trang bị dựa trên các con số đã được thổi phồng lên để bỏ túi phần chênh lệch. Khi khởi nghĩa Thái bình thiên quốc nổ ra trong thập kỷ 1850, triều đình nhà Thanh mới muộn màng nhận ra rằng Kỳ binh và Lục doanh quân không thể giúp họ dẹp tan nội loạn cũng như bảo vệ đất nước khỏi quân xâm lược. * Chuyển biến và hiện đại hoá Sự thất bại của Trung Hoa trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài đã làm cho sĩ phu thức tỉnh. Cũng như nhiều quốc gia Á Đông thời kỳ đó, nhiều nho sĩ Trung Hoa đã yêu cầu Thanh đình cải cách về quân sự, chính trị cũng như xã hội. Hai người đi đầu trong việc hoạch định một chính sách mới là Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phương. Ngụy Nguyên đưa ra những biện pháp nhan đề Trù Hải Thiên Kế Hoạch Phòng Thủ Duyên Hải năm 1842 đại lược như sau - Cải cách quân đội bằng cách học hỏi cách chế tạo vũ khí, đóng tàu của người phương Tây. Ngoài ra phải đãi ngộ xứng đáng, trả lương hậu hĩ để có được những binh sĩ ưu tú - Tập trung phòng thủ trên đất liền và dụ địch vào trong các thủy đạo để tiêu diệt tại một khu vực đã sắp xếp trước - Liên minh với nhiều nước để họ kiềm chế lẫn nhau và mượn tay kẻ thù này tiêu diệt kẻ thù kia - Mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán Phùng Quế Phương là học trò của Lâm Tắc Từ. Lúc ở Thượng Hải đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa tư bản. Năm 1861 ông đã viết quyển sách " Hiệu lư bân" kháng nghị chủ trương học tập khoa học tự nhiên và kỹ thuật sản xuất của các nước tư bản như thiên văn, lịch pháp, công cụ sản xuất va các mặt tri thức khác, mong muốn thông qua biện pháp cải lương chính trị để đưa Trung Quốc tiến lên con đường tư bản. Ông đi sâu hơn vào những cải cách chính trị và xã hội trong đó ông nhấn mạnh - Học hỏi và tự chế tạo những vũ khí cần thiết, thúc đẩy người học về kỹ thuật để thoát ra khỏi những đe dọa của nước ngoài. - Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài bao gồm nhiều lãnh vực kỹ thuật và khoa học khác đồng thời biến cải kỹ nghệ quốc phòng - Cải cách cách huấn luyện binh sĩ, đào tạo những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn là duy trì một đội quân khổng lồ nhưng kém cỏi - Áp dụng lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng kỹ thuật mới. Trịnh Quan Ứng, một thương nhân nổi tiếng chủ trương khai thác mỏ quặng, xây dựng đường sắt, xuất bản báo chí, lập trường học, yêu cầu thành lập nghị viện và xây dựng chế độ quân chủ lập hiến. Những quan điểm mới đó sau này được phát động để trở thành một phong trào dưới cái tên Dương Vụ Vận Động. Tuy nhiên những vận động có tính chất "lửa rơm" đó không đi đến đâu vì chỉ do nhiệt huyết sĩ phu mà không phải là những chương trình được nghiên cứu chu đáo và áp dụng một cách qui củ. Những cải cách quân sự vẫn chỉ hời hợt bề ngoài nên không thành công. Về sau, để đối phó với những tổ chức nổi dậy, nhiều đơn vị quân sự địa phương được thành lập và ít nhiều mang lại những sinh khí mới như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, gia tăng lưu động tính, nhấn mạnh vào đức tính của quân sĩ, Hoài quân của Lý Hồng Chương, sử dụng vũ khí phương Tây, Sở quân của Tả Tông Đường nhấn mạnh vào vai trò hệ thống tiếp liệu. * Cải cách trong quân đội Đầu cuộc khởi nghĩa Thái bình thiên quốc, các lực lượng nhà Thanh chịu một loạt các thất bại nặng nề dẫn tới việc mất thủ đô hành chính địa phương tại Nam Kinh 1853. Quân khởi nghĩa giết toàn bộ quân đồn trú Mãn Thanh và gia đình họ sống tại thành phố và biến nó làm thủ đô của họ. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái bình thiên quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân, nơi được coi là vùng trung tâm của đế quốc. Trong tình trạng tuyệt vọng, triều đình lệnh cho một vị quan Trung Quốc là Tăng Quốc Phiên tổ chức lại lực lượng dân quân tại các vùng và các địa phương Đoàn Dũng và Hương Dũng thành một lực lượng thường trực để chống lại quân Thái Bình. Chiến lược của Tăng Quốc Phiên dựa trên giới quý tộc địa phương để xây dựng lên một tổ chức quân sự mới từ các tỉnh đang bị quân Thái Bình đe dọa trực tiếp. Lực lượng mới này được gọi là Sương quân, được đặt tên theo vùng đất nơi họ được thành lập. Sương quân là một hỗn hợp giữa dân quân địa phương và quân đội thường trực. Họ được huấn luyện chuyên nghiệp, nhưng lĩnh lương từ ngân khố địa phương. Sương quân và lực lượng sau này là Hoài quân được các vị quan đồng triều với Tăng Quốc Phiên cùng người 'học trò' là Lý Hồng Chương thành lập hai quân này thường được gọi chung là Dũng Doanh. Trước khi thành lập và chỉ huy Hoài quân, Tăng Quốc Phiên chưa từng có kinh nghiệp quân sự. Là một vị quan được giáo dục theo kiểu cổ điển, kế hoạch thành lập Hoài quân của ông được thực hiện theo kinh nghiệm lịch sử - tướng nhà Minh là Thích Kế Quan vì thấy sự yếu kém của quân đội triều đình đã quyết định thành lập đội quân 'riêng' của mình nhằm chống lại quân cướp biển Nhật Bản ở giữa thế kỷ 16. Học thuyết của Thích Kế Quang dựa nhiều vào các tư tưởng Tân Khổng giáo ràng buộc tính trung thành của quân đội với cấp chỉ huy trực tiếp và vào vùng đất nơi họ được thành lập. Việc này đầu tiên tạo cho quân đội một số tinh thần đoàn kết. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra rằng quân đội của Thích Kế Quang là một giải pháp tình thế cho một vấn đề cụ thể - chiến đấu chống lại cướp biển, cũng như Tăng Quốc Phiên dự định thành lập Hoài quân để chống quân khởi nghĩa Thái Bình. Tuy nhiên theo hoàn cảnh, hệ thống Dũng binh trở thành một cơ cấu thường trực bên trong quân đội nhà Thanh và cùng với thời gian nó lại gây ra những vấn đề cho chính phủ trung ương. Đầu tiên hệ thống Dũng binh báo hiệu sự kết thúc ưu thế của người Mãn Châu bên trong thể chế quân đội nhà Thanh. Dù các Kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh, từ đó các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của chính phủ Thanh. Thứ hai, các đơn vị Dũng binh được tài trợ từ nguồn tài chính của các tỉnh và tuân theo sự chỉ huy của các tướng lĩnh địa phương. Sự thay đổi này khiến cho quyền lực của chính phủ trung ương có phần giảm sút. Nghiêm trọng hơn cả là khi các Cường Quốc Châu Âu bắt đầu xâm nhập vào Trung Quốc. Tuy nhiên, dù có những ảnh hưởng tiêu cực các biện pháp này tỏ ra rất cẩn thiết ở thời điểm nguồn thu từ các tỉnh đã bị quân khởi nghĩa chiếm không còn tới được ngân khố triều đình. Cuối cùng, cơ cấu chỉ huy của Dũng binh tạo thuận lợi cho các chỉ huy quân sự của nó có cơ hội phát triển quan hệ với nhau vì khi được thăng chức và dần dần triều đình nhà Thanh đã có một chút nhượng bộ họ. Tới cuối những năm 1850 Trung Quốc đã bắt đầu suy sụp. Thậm chí các nhân tố bảo thủ nhất bên trong triều đình nhà Thanh cũng không thể không nhận thấy sự yếu kém quân sự của triều đình đối lập với sự hùng mạnh của quân đội "rợ" nước ngoài đang dần áp chế họ - Năm 1860 trong cuộc Chiến tranh nha phiến lần hai thủ đô Bắc Kinh bị chiếm và Cung điện mùa hè Cũ bị một liên minh nhỏ của Anh Pháp với số lượng chừng quân cướp phá. Dù Trung Quốc tự kiêu hãnh rằng chính họ là người phát minh ra thuốc súng, và súng ống từng được sử dụng trong chiến tranh ở Trung Quốc từ thời nhà Tống, sự xuất hiện của các loại vũ khí hiện đại từ cuộc Cách mạng công nghiệp ở châu Âu như súng có rãnh xoắn 1855, súng máy 1885, và các tàu chiến chạy bằng hơi nước những năm 1890 khiến quân đội, hải quân Trung Quốc được huấn luyện kiểu cổ điển và trang bị các loại vũ khí thô sơ mất ưu thế hoàn toàn. Nhiều lời kêu gọi "Tây phương hoá" và hiện đại hóa các loại vũ khí hiện dùng trong quân đội - đa phần từ phía Hoài quân mang lại rất ít kết quả. Một phần bởi vì họ thiếu vốn, nhưng chủ yếu bởi vì thế lực chính trị trong triều đình nhà Thanh không muốn thực hiện điều đó thông qua các biện pháp cải cách. Tư bản nước ngoài xâm nhập Điều ước Nam Kinh mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào Trung Quốc. Năm 1845 nước Anh mở tuyến đường thủy từ thủ đô London Anh đến Trung Quốc, sau đó xây dựng ụ tàu ở Quảng Châu Quảng Đông để sửa chữa tàu thuyền, đó là hoạt động công nghiệp đầu tiên của tư bản nước ngoài hình thành ở Trung Quốc. Ít lâu sau các thương nhân Anh, Mỹ cũng mở xưởng sửa chữa tàu và lập ụ tàu ở Thượng Hải, Hạ Môn, Phúc Châu, về sau tư bản nước ngoài lũng đoạn ngành hàng hải của Trung Quốc. Trong thời gian từ năm 1862 đến 1875 số vốn của thương nhân Anh và Mỹ đầu tư trong ngành hàng hải lên tới 256 vạn lạng bạc. Sau khi điều ước Ái huy được ký kết năm 1858 thương nhân Nga được quyền hoạt động ở Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1863 các thương nhân Nga mở xưởng chế biến chè tại Hán Khẩu Hồ Bắc, Cửu Giang Giang Tây, Phúc Châu Phúc Kiến cạnh tranh mạnh với ngành sản xuất chè truyền thống của Trung Quốc. Hán Khẩu trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu chè của Trung Quốc, năm 1865 số lượng chè xuất khẩu tại Hán Khẩu là 1400 tấn, đến năm 1875 đã tăng lên 11000 tấn, tức tăng lên 8 lần. Năm 1862 các thương nhân Anh mở xưởng ươm tơ tại Thượng Hải, sau đó thương nhân Pháp và Mỹ cũng tham gia sản xuất trong ngành này. Các xưởng ươm tơ của tư bản nước ngoài đã phá hoại ngành ươm tơ thủ công nghiệp truyền thống của Trung Quốc. Bên cạnh đó tư bản nước ngoài còn mở những xí nghiệp làm đường, chế biến bột, thuộc da. Sự hình thành chủ nghĩa tư bản dân tộc Sau chiến tranh thuốc phiện do sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản ngoại quốc nên công nghiệp dân doanh của Trung Quốc bắt đầu sử dụng máy móc để sản xuất. Năm 1861 thương nhân Phúc châu mua máy móc nước ngoài để làm chè khối. Năm 1862 hiệu buôn gạo Hồng thịnh ở Thượng hải bắt đầu dùng máy xát gạo. Năm 1880 thương nhân Nam hải Quảng đông mở xưởng ươm tơ máy. Các cơ sở công nghiệp quy mô nhỏ đó là bước đầu của ngành công nghiệp kiểu mới do thương nhân làm. Thương nhân, địa chủ, quan liêu bỏ vốn vào công nghiệp kiểu mới trở thành tiền thân của giai cấp tư sản Trung Quốc. Thương nhân chuyển thành giai cấp tư sản đó là lớp dưới của giai cấp tư sản vì điều kiện khó khăn nên công nghiệp của họ phát triển chậm. Còn địa chủ và quan liêu biến thành giai cấp tư sản là lớp trên vì họ có đặc quyền về chính trị và kinh tế nên công nghiệp của họ phát triển tương đối nhanh. Đối với việc cải cách xã hội giai cấp tư sản lớp dưới có yêu cầu tương đối mạnh. Lúc mới ra đời, tư sản dân tộc Trung Quốc đã phải chịu hai tầng áp chế của tư sản nước ngoài và thế lực phong kiến trong nước. Một công sứ Anh đã từng nói "việc Trung Quốc sản xuất bằng máy móc sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Anh". Mặt khác nhà Thanh cũng sợ công nghiệp phát triển sẽ tập trung nhiều nhân dân lao động làm lung lay nền thống trị phong kiến của mình. Vì vậy tư sản ngoại quốc và phong kiến trong nước có thái độ thù địch với tư bản dân tộc, do đó tư bản dân tộc Trung Quốc phát triển rất khó khăn và chậm chạp. Trong thời gian 1904 – 1908 có 227 công ty được thành lập nhưng trong số đó chỉ có 72 doanh nghiệp có số vốn lớn hơn lạng bạc. Công nghiệp dệt phát triển rất nhanh chóng, số vốn từ năm 1881 – 1895 tăng gấp 22 lần lên tới đô la, các nhà máy dệt chủ yếu tại Thượng hải và Vũ hán Hồ bắc. Tại Vũ hán có cục dệt vải Hồ bắc. Tại Thượng hải có cục dệt Hoa tân, Hoa thịnh, nhà máy sợi Dụ nguyên. Trương Kiển 1853 - 1926 một trong những nhà doanh nghiệp tiên phong trong hoạt động công thương thời kỳ đó, mở xưởng dệt Đại Sinh ở Nam thông Giang tô, các công ty khai khẩn chăn nuôi Thông Hải, công ty tàu thủy Đại Đạt, công ty bột mì Phục Tân, ngân hàng thực nghiệp Hoài hải. Quan đốc thương biện Nhờ những hoạt động đó, Trung Quốc bước đầu có những cơ sở công nghiệp hiện đại. Sau đó xuất hiện nhiều xí nghiệp do nhà nước quản lý, tư nhân điều hành, nhà nước và tư nhân cùng làm gọi là quan đốc thương biện. Những thương nhân người Quảng đông như Đường Đình Canh, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng, đều hoạt động mãi biện cho các công ty nước ngoài như Dent & Co, Jardin Matheson nên tích lũy được tiền bạc trước khi tham gia kinh doanh riêng. Tài sản của Từ Nhuận đạt đến 1800 vạn lạng bạc vào năm 1883 trong đó 65% tài sản là thuộc về bất động sản tại Thượng hải, được mệnh danh là vua địa ốc.. Trước năm 1870 hoạt động vận tải hàng hải tại Trung Quốc bị chi phối bởi công ty Russel & Co của Mỹ. Nhận thấy vấn đề đó đạo đài Thượng hải là Đinh Nhữ Xương về sau là Giám đốc Giang nam công xưởng, đô đốc hạm đội hải quân Bắc dương cùng với Lý Hồng Chương bàn tính giành lại quyền tự chủ trong hoạt động hàng hải. Năm 1863 Đinh Nhữ Xương dự định thành lập công ty hàng hải dùng tàu thuyền Trung Quốc và được hưởng mức thuế thấp, chủ trương khuyến khích thương nhân bỏ vốn và đóng các tàu hơi nước. Sau khi vượt qua trở ngại về tài chính năm 1872, Lý Hồng Chương và Thịnh Tuyên Hoài cùng xây dựng Cục Kinh doanh Tàu biển Luân thuyền chiêu thương cục tại Thượng hải có tính chất dân dụng do thương nhân Đường Đình Thục, Từ Nhuận, Trịnh Quan Ứng góp vốn và tham gia quản lý thực hiện chở lương thực từ Giang nam đến Thiên tân, đặt nền móng cho ngành vận tải hàng hải của Trung Quốc. Lúc đầu Chiêu thương cục có 3 chiếc tàu với lượng vốn 20 vạn lạng bạc, sau 4 năm hoạt động tăng lên 33 chiếc, tổng lượng hàng vận chuyển là tấn, lợi nhuận hàng năm đạt 30 vạn lạng bạc. Do lượng vốn ban đầu hạn chế nên trong quá trình kinh doanh những người quản lý kêu gọi vốn góp thêm đạt tới 100 vạn lạng bạc, trong đó Từ Nhuận chiếm tới 50% cổ phần. Năm 1877 Chiêu thương cục mua lại Công ty tàu thủy Thượng hải do người Mỹ góp vốn, tiếp nhận 17 chiếc tàu. Khi Đường Đình Thục chuyển đến làm quản lý mỏ than Khai bình năm 1884, Từ Nhuận lên thay, mua lại Công ty tàu thủy Kỳ xương Mỹ có quy mô lớn nhất Đông Á mở rộng phạm vi kinh doanh, độc quyền kinh doanh vận tải vùng Trường giang. Đường Đình Thục còn quản lý Công ty hàng hải liên hợp thành lập năm 1868. Đường Đình Thục liên kết với Trịnh Quan Ứng mở 2 ụ tàu hơi nước ở Phật sơn và Quảng châu. Khai bình môi khoáng thành lập năm 1877 tại phía bắc Thiên tân có sản lượng lên tới 70 vạn tấn/năm do thương nhân Đường Đình Thục quản lý với số vốn 150 vạn lạng bạc, Thiên tân điện báo cục, Nam bắc điện báo cục, Cục đường sắt Bắc dương quan ở Sơn hải quan, Tân Du thiết lộ, Giang tây Công ty Than đá và sắt Hán Dã Bình thành lập năm 1889 dưới sự kết hợp của mỏ sắt Đại dã và mỏ than Bình hương, Ngân hàng Công thương Trung Quốc được thành lập năm 1897 tại Thượng hải, Công ty Xi măng Tangshan Qixin tại Thiên tân thành lập năm 1892 đưa Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ở châu Á sản xuất xi măng. Trước đó ngành bảo hiểm hàng hóa của Trung Quốc do các công ty nước ngoài thực hiện. Để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm, năm 1875 Từ Nhuận đã thành lập Công ty bảo hiểm đầu tiên của Trung Quốc là Công ty bảo hiểm hàng hải Nhân hòa với số vốn 50 vạn lạng bạc. Đến năm 1878 lại thành lập thêm Công ty bảo hiểm hàng hải và cháy Ký hòa với số vốn 50 vạn lạng bạc. Đến năm 1886 Từ Nhuận sáp nhập 2 công ty đó thành Công ty Bảo hiểm Nhân Kỳ Hòa, đặt nền móng cho ngành kinh doanh bảo hiểm Trung Quốc. Ngoài ra Từ Nhuận còn góp vốn vào hoạt động khai mỏ. Với 15 vạn lạng bạc chiếm 10% số vốn của mỏ than Khai bình, Từ Nhuận đảm nhận chức Giám đốc, khuyến khích sử dụng nhiều máy móc nhập từ Anh, thuê kỹ sư Anh, dùng công nghệ mới để khai thác than, số nhân công người Quảng đông đã lên tới 5000 người. Sản lượng của mỏ than Khai bình nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thị trường Thiên tân, cạnh tranh với than nhập khẩu. Mỏ than Khai bình cung cấp nhiên liệu cho hạm đội hải quân Bắc dương và các cơ sở địa phương. Để phục vụ cho việc vận chuyển than, đường sắt Thiên tân được xây dựng. Các doanh nghiệp phụ trợ cho than đá và xi măng cũng được thành lập trong khu vực. Chi nhánh Quảng châu của Mỏ than Khai bình do Trịnh Quan Ứng 1842 -1922 làm quản lý. Trịnh Quan Ứng tham gia dịch thuật bộ luật kinh doanh của Anh ban hành tại Hương cảng năm 1865 sang tiếng Hoa. Năm 1880 Trịnh Quan Ứng mở nhà máy dệt tại Thượng hải, nhờ Dung Hoằng lúc đó làm Phó lãnh sự tại Mỹ tuyển dụng kỹ sư người Mỹ. Năm 1881 Trịnh Quan Ứng đầu tư 65000 lạng bạc thành lập Công ty Khai hoang Đường cô Thiên tân làm tiền đề cho việc sản xuất giấy 10 năm sau. Trịnh Quan Ứng còn tham gia quản lý tuyến đường sắt Quảng châu – Hán khẩu và đến năm 1905 thành lập Phòng thương mại Quảng châu. Về sau Trịnh Quan Ứng tái cơ cấu lại Luân thuyền chiêu thương cục cho phù hợp với luật thương mại. Từ Nhuận còn đầu tư vào mỏ đồng Bình tuyền, mỏ vàng Hà phong ở Nghi xương, mỏ bạc Gushanxi, mỏ bạc Tam sơn, mỏ bạc Thiên hoa Quảng đông, mỏ bạc Đàn châu, mỏ vàng Kiến bình Nhiệt hà, mỏ than Cẩm châu, mỏ than Quế trì An huy. Bên cạnh các hoạt động doanh thương Từ Nhuận còn đóng góp vào các hoạt động xã hội, thành lập Hội Chữ thập đỏ Trung Quốc, Đồng văn thư cục, gửi du học sinh sang Mỹ. Nhiều người trong số đó về sau đều có những đóng góp cho sự phát triển của đất nước như nhà chính trị Đường Thiệu Nghi, nhà ngoại giao Lương Như Hạo, nhà kỹ sư Thiên Hựu, Hiệu trưởng trường Đại học Thanh hoa Đường Quốc Ân. Trong việc xây dựng và phát triển nền công nghiệp cận đại của Trung Quốc, công lao của Thịnh Tuyên Hoài rất lớn, được xem như người cha của nền công nghiệp cận đại. Ngoài ra còn phải kể đến các thương nhân như Đường Đình Thục, Đường Đình Canh, Từ Nhuận 1838 - "vua trà Trung Quốc" và "vua địa ốc". Lý Hồng Chương thành lập Cục Điện báo năm 1882 và giao cho trợ thủ là Thịnh Tuyên Hoài quản lý và góp phần lớn số vốn trong Điện báo cục thực hiện xây dựng đường dây điện tín giữa Thiên tân và Thượng hải. Tới năm 1901 Điện báo cục đã xây dựng 14000 dặm đường dây điện tín giữa các thành phố, thị trấn. Năm 1876 Bưu điện Đại Thanh được thành lập. Trong thời gian 1872 – 1885 có tới 90% dự án hiện đại hóa sản xuất được thực hiện dưới sự bảo trợ của Lý Hồng Chương. Có tới 75 cơ xưởng sản xuất và 33 mỏ than và khoáng sản được thành lập. Các lĩnh vực công nghiệp ứng dụng phương pháp kỹ thuật mới. Năm 1853 nhà thuốc Lão đức ở Thượng hải đã chế được thuốc tây, nhà máy xà phòng Mỹ Tra làm được xà phòng. Năm 1876 nhà máy Đạm thủy Đài Loan bắt đầu dùng máy móc đào than. Năm 1878 dùng phương pháp Tây phương đế khai thác dầu. Năm 1861 người Anh dùng máy kéo tơ. Năm 1889 Cục dệt vải Thượng hải sử dụng kỹ thuật Tây phương để dệt vải. Năm 1892 Cục dệt vải Hồ bắc cũng có xưởng dệt quy mô lớn. Năm 1881 kỹ thuật chế tạo giấy bằng máy được du nhập, năm 1890 nhà máy giấy Long chương được thành lập tại Thượng hải, năm 1882 kỹ thuật chế tạo da được nhập vào. Năm 1880 tại Thượng hải bắt đầu sản xuất hộp quẹt, năm 1891 sản xuất thuốc lá cuốn bằng máy. Năm 1864 nhà máy khí than Thượng hải ra đời, năm 1881 có nhà máy nước, năm 1882 có nhà máy bóng đèn điện. Trước năm 1880 điện báo đã được đưa vào Trung Quốc, năm 1872 đường dây điện tín giữa Hồng Kông và Thượng Hải được khai thông. Ngành in ấn dùng kỹ thuật in của phương tây. Năm 1872 báo Buổi sáng ở Thượng hải đã nhập máy in bánh xe. Năm 1873 Cục in ấn được thành lập. Năm 1906 máy in cuốn chạy điện được nhập vào Trung Quốc. Phương pháp in thạch nhập vào năm 1876, kỹ thuật karô nhập vào đầu thời Quang tự. Thông thương vụ đại thần Tam khẩu Sùng Hậu đề nghị phát triển thủy lợi ở miền đông Trực lệ, và tuần phủ Giang tây Thẩm Bảo Trinh đề nghị thay đổi phương pháp thu thuế đất ở Giang tây, đều nhằm giảm gánh nặng cho dân. Mặc dầu còn có nhiều hạn chế nhưng những hoạt động của phái Dương Vụ trên thực tế đã kích thích phần nào chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc phát triển. Bên cạnh đó các nước Âu Mỹ cũng cho xây nhiều bệnh viện. Năm 1844 Anh xây dựng bệnh viện ở Thượng hải, sau đó ở Bắc kinh, Thẩm dương. Mỹ cũng xây bệnh viện ở Thượng hải, Sán đầu. Các tổ chức giáo hội xây dựng khoảng 70 bệnh viện. Lĩnh vực dân sinh. Năm 1888 Lý Hồng Chương lập Tổng y viện trực thuộc Hải quân Bắc dương, có Tây y học đường, bệnh viện thực hành, kho thuốc, bổ nhiệm một người Anh làm Y quan. Các tổ chức giáo hội mở trường y ở Trung Quốc có Quảng châu Hạt Cát Y học viện năm 1899, Thượng hải Thần đán Y học viện năm 1903, Bắc kinh Hiệp hòa Y học viện năm 1906, Tứ xuyên Thành đô Hoa tây Hiệp hòa Đại học Y học viên năm 1910. Năm 1902 Công ty nước sạch Thiên tân hoạt động, năm 1904 Thiên tân có Công ty Xe điện của Bỉ hoạt động. Năm 1895 Thịnh Tuyên Hoài thành lập trường Trung Tây học đường ở Thiên tân. Phong trào Tây dương vụ Những người hăng hái thực hiện những biện pháp canh tân đều là các quan lại đã trải qua cuộc nội dậy Thái bình thiên quốc cho rằng muốn chống cự với phương Tây thì phải có tàu bè như họ, súng ống như họ, quân đội phải luyện tập theo lối của họ. Vài người Mãn như Cung Thân Vương Dịch Hân, Quế Lương nghĩ đến việc tự cường, bàn với Văn Tường, Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tông Đường, Quách Sùng Đào về sau có Tăng Kỷ Trạch, Tăng Quốc Thuyên, Trương Chi Động... hình thành Dương vụ phái. Họ cùng có chung chủ trương "tân chính", kêu gọi "tự cường" bằng cách học tập phương Tây, trong đó khẩu hiệu "Trung học vi thể, Tây học vi dụng" được phái này xem là tư tưởng chỉ đạo Họ đồng ý với nhau rằng "muốn tự cường thì việc luyện binh là quan trọng nhất, mà muốn luyện binh thì trước hết phải chế tạo vũ khí giới". Ngày 13/1/1861 vua Hàm Phong ra chỉ dụ thừa nhận phong trào Dương Vụ, khuyến khích tự lực tự cường, làm theo phương Tây để tăng cường quyền lực và phát triển kinh doanh. Phong trào Tây dương vụ ra đời, do Cung thân vương Dịch Hân, em vua Hàm Phong giữ chức Nghị chính vương kiêm Quân cơ xứ lĩnh bang đại thần khởi xướng. Phong trào kéo dài từ 1860 – 1895 với mốc khởi đầu là việc thành lập Tổng lý các quốc sự vụ nha môn tháng 1 năm 1861. Năm 1862, họ giao cho Lý Hồng Chương thi hành. Năm 1861 Tổng đốc Lưỡng giang Tăng Quốc Phiên thành lập An khánh quân giới cục tại tỉnh An huy. Năm 1862 Tuần phủ Giang tô Lý Hồng Chương và Tăng Quốc Phiên đồng sáng lập Cục pháo binh và Tổng cục chế tạo cơ khí Giang nam ở Thượng hải, Cục làm pháo Tây dương ở Tô châu, Cục cơ khí Kim lăng ở Nam kinh. Năm 1866 Tổng đốc Mân Triết Tả Tông Đường mở Cục thuyền Mã vĩ ở Phúc Kiến, do Thuyền chính đại thần Thẩm Bảo Trinh làm Giám đốc, đặt nền móng cho hải quân Trung Quốc. Tả Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung Quốc tại Phúc Kiến mang tên Mã vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên khi ông làm tổng đốc ở đây. Khi chuyển đến vùng tây bắc giữ chức Tổng đốc Thiểm Cam, Tả Tông Đường đề xuất lên triều đình nhiều chủ trương chính sách thúc đẩy kinh tế văn hóa vùng Tân Cương có tác dụng tích cực đối với việc khai phá vùng biên giới, thành lập các cơ sở sản xuất kiểu mới ở vùng tây bắc như Lan châu cơ khí chức ni cục là xưởng dệt len cơ khí đầu tiên của Trung Quốc dùng máy móc của Đức, thành lập năm 1878, Tổng cục tơ tằm A khắc tô, Lan châu chế tạo cục thành lập năm 1871, Tây an cơ khí cục thành lập năm 1869. Năm 1867 tại Thiên tân Sùng Hậu Thông thương vụ đại thần Tam khẩu mở 2 cơ khí cục chuyên sản xuất cơ khí quân dụng, sau đó năm 1872 Luân thuyền chiêu thương cục mở chi nhánh tại đây, năm 1877 mỏ than Khai bình được đưa vào khai thác, năm 1888 tuyến đường sắt Thiên tân Đường sơn hoàn thành, năm 1896 Bưu điện Đại Thanh hoạt động tại đây, năm 1903 thành lập Tổng cục Công nghệ Trực lệ. Tả Tông Đường là người đã mở xưởng đóng tàu đầu tiên ở Trung Quốc tại Phúc Kiến mang tên Mã vĩ, và cũng đã thành lập học viện hải quân đầu tiên khi ông làm tổng đốc ở đây. Tổng cục chế tạo Giang Nam Năm 1865 đạo đài Thượng hải Đinh Nhữ Xương, cựu tướng lĩnh Hoài quân được bổ nhiệm làm Giám đốc Cục chế tạo cơ khí Giang nam về sau được cử làm đô đốc hạm đội hải quân Bắc dương. Lúc đầu kinh phí mua sắm máy móc chỉ có 25 vạn lạng bạc 35 vạn USD được lấy từ nguồn thu thuế quan tại Thượng Hải. Tổng cục chế tạo cơ khí Giang Nam mua các máy móc của Mỹ gồm lò nấu, máy hơi nước, động cơ, máy đục, máy vặn ốc đủ các loại máy móc để chế tạo súng trường và pháo, thủy lôi, đạn dược, máy móc đóng tàu, là xí nghiệp quân sự lớn nhất do phái Dương vụ thành lập, về quy mô là một trong những công xưởng quân sự lớn nhất châu Á lúc bấy giờ. Đến giữa năm 1867 mỗi ngày công xưởng sản xuất 14 khẩu súng trường và hàng trăm thùng đạn, cung ứng cho mặt trận Thiểm Cam của Tả Tông Đường. Đến năm 1873 mới sản xuất được 4200 khẩu súng trường Remington. Năm 1874 sản xuất được 110 đại bác theo kiểu của cơ xưởng Amstrong Anh với các loại cỡ nòng 120 mm, 170 và 200 mm. Về sau Lý Hồng Chương cho áp dụng kỹ thuật của Đức thay cho của Anh, dùng nhiều sản phẩm của hãng Krupp. Năm 1861 nhà khoa học Từ Thọ 1818 – 1888 người Vô Tích, Giang tô đã nghiên cứu chế tạo tàu hơi nước, đến năm 1862 chế tạo thành công tàu Hoàng cốc là chiếc tàu hơi nước đầu tiên của Trung Quốc được làm bằng gỗ. Máy móc chủ yếu là bánh chuyển động bằng hơi nước, xi lanh dài 2 thước, đường kính dài 1 thước, chiều dài của tàu là 55 thước, nặng 25 tấn, vận tốc đạt 6 hải lý/giờ. Năm 1868 Từ Thọ đến làm việc tại Quảng phiên viện quán nhà phiên dịch của Tổng cục chế tạo Giang nam lần lượt dịch 13 loại thư tịch khoa học Tây phương như "Khí cơ phát nhẫn", "Doanh trận đề yếu", "Tây nghệ tri tân". Năm 1868 chiếc tàu đầu tiên của nhà máy tàu thuyền Giang Nam là Huệ Cát được hạ thủy. Đến năm 1876 Giang nam công xưởng cho hạ thủy 7 chiếc tàu hơi nước, trong đó chiếc tàu lớn nhất có tải trọng 2800 tấn. Quy mô của Giang nam công xưởng vượt xa xưởng đóng tàu Yokosuda của Nhật mãi đến năm 1887 mới bắt đầu sản xuất tàu cỡ lớn. Năm 1869 nhà máy chế tạo tàu thuyền Mã vĩ Phúc châu bắt đầu đóng loại tàu mới, sử dụng máy móc và kỹ thuật cơ khí của Pháp do Thẩm Bảo Trinh nguyên tuần phủ Giang tây làm Giám đốc. Kinh phí ban đầu là 40 vạn lạng bạc 55 vạn đô la được huy động từ các tỉnh Phúc kiến, Chiết giang, Quảng đông. Trong thời gian 1866 – 1874 chi phí của xưởng lên tới 540 vạn lạng bạc 750 vạn đô la. Số nhân công của xưởng Mã vĩ lúc cao nhất đạt tới 3000 công nhân, quy mô lớn hơn Giang nam chế tạo cơ khí chế tạo tổng cục. Năm 1890 Tổng cục chế tạo cơ khí Giang nam bắt đầu lập xưởng luyện thép, có lò 15 tấn mỗi ngày luyện được 3 tấn, đó là lò luyện thép lò thường đầu tiên của Trung Quốc. Năm 1892 quy mô của Giang nam công xưởng đạt tới diện tích 73 acre đất, 1974 nhà xưởng và 2982 công nhân. Máy móc của công xưởng có 1037 máy, sản xuất ra 47 loại sản phẩm dưới sự giám sát của kỹ thuật viên nước ngoài. Đến những năm 1890 hoạt động của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật; các kiểu đạn pháo do Tổng cục chế tạo Giang nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ khí nhập khẩu của phương Tây. Cục cơ khí Thiên tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ khí quân dụng. Kinh phí xây dựng 3 cục cơ khí Giang nam, Thiên tân, Kim lăng lên tới 2454 vạn lạng bạc, chiếm 50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Ngoài ra còn có các công xưởng quân khí khác được xây dựng ở Tây an Thiểm tây, năm 1869, Lan châu Cam túc, năm 1871, Quảng châu năm 1874, Hồ nam và Sơn đông năm 1875, Thành đô Tứ xuyên, năm 1877, Cát lâm năm 1881, Bắc kinh năm 1883, Vân nam năm 1884, Hàng châu và Đài Loan năm 1885. Các trường quân sự cũng được thành lập năm 1867 trường hải quân được thành lập ở Phúc châu Phúc kiến, Thiên tân Trực lệ năm 1880, Hoàng phố Quảng đông năm 1887, Nam kinh Giang tô năm 1890, Yên đài Sơn đông năm 1903. Kinh phí xây dựng 3 cục cơ khí Giang nam, Thiên tân, Kim lăng lên tới 2454 vạn lạng bạc, chiếm 50% chi phí cho công nghiệp quân sự của nhà Thanh. Đến những năm 1890 hoạt động của 3 cục quân giới trên đã có những thành tích nổi bật; các kiểu đạn pháo do Tổng cục chế tạo Giang nam chế tạo ra đã tiếp cận được với vũ khí nhập khẩu của phương Tây. Cục cơ khí Thiên tân nổi tiếng với các sản phẩm cơ khí quân dụng. Ngoài ra còn có các công xưởng quân khí khác được xây dựng ở Tây an Thiểm tây, năm 1869, Lan châu Cam túc, năm 1871, Quảng châu năm 1874, Hồ nam và Sơn đông năm 1875, Thành đô Tứ xuyên, năm 1877, Cát lâm năm 1881, Bắc kinh năm 1883, Vân nam năm 1884, Hàng châu và Đài Loan năm 1885. Về sau công cuộc Tây dương vụ được Tổng đốc Hồ quảng Trương Chi Động và Bộ trưởng Giao thông Thịnh Tuyên Hoài tiếp tục thực hiện, hai người thành lập nhiều xí nghiệp, riêng Thịnh Tuyên Hoài còn bỏ vốn đầu tư trong nhiều cơ sở kinh doanh. Khi đến Quảng đông nhậm chức tổng đốc Lưỡng quảng, Trương Chi Động cho xây dựng Quảng đông quân giới cục, thành lập trường lục quân Quảng đông, Cục dệt vải và Xưởng luyện thép Quảng đông. Trong thời gian này Trương Chi Động cho thành lập Giang nam tự cường quân là lực lượng lục quân kiểu mới sớm nhất Trung Quốc lúc bấy giờ theo biên chế quân đội phương Tây. Lúc được thuyên chuyển đến Hồ bắc Trương Chi Động cho di dời toàn bộ thiết bị của xưởng súng pháo Quảng đông và cho xây dựng thành xưởng súng pháo Hán dương, Xưởng dệt tứ cục Hồ bắc bao gồm dệt vải, kéo sợi, ươm tơ, chế biến gai, Thư viện Lưỡng Hồ, lập kế hoạch xây dựng đường sắt Lô Hán sau đổi tên là Kinh Hán, xây dựng từ năm 1896, hoàn thành năm 1905 nối liền hai miền nam bắc. Công binh xưởng Hán Dương Công binh xưởng Hán Dương được xây dựng năm 1894 từ nguồn kinh phí của hạm đội Nam Dương là nhà máy sản xuất vũ khí đầu tiên có quy mô lớn với hệ thống kỹ thuật lớn nhất. Công xưởng có diện tích 40 acre. Tháng 8 năm 1895 tại đây bắt đầu sản xuất súng trường M1888 của Đức, và súng trường Mauser, và đạn dược với sản lượng 13000 băng/tháng. Đến năm 1900 công binh xưởng Hán dương đã cung cấp cho lực lượng Nghĩa hòa đoàn hơn 3000 súng trường và 1 triệu băng đạn. Đến năm 1904 công binh xưởng Hán dương đã đạt sản lượng 50 súng trường T88 và 12000 băng đạn mỗi ngày, sản xuất ra súng bộ binh kiểu Hán dương gọi là Hán dương tạo. Năm 1893 ở Hồ bắc xây dựng nhà máy thép Hán dương, lò cao cận đại hóa của Trung Quốc bắt đầu sản xuất vào tháng 5 năm 1894. Nhà máy có 4 lò cao đều mua trang thiết bị nước ngoài, trình độ kỹ thuật tương đối tiên tiến so với thế giới lúc đó. Tháng 2 năm 1908 nhà máy thép Hán dương cùng mỏ sắt Đại dã hợp nhất với nhà máy luyện khoáng và mỏ Bình hương Giang tây, trở thành một xí nghiệp liên hợp gang thép đầu tiên có quy mô lớn hiện đại nhất châu Á lúc bấy giờ, đạt tới sản lượng 113 ngàn tấn gang và 50 ngàn tấn thép năm 1910. Thua trận trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894 - 1895 là một bước ngoặt đối với triều đình nhà Thanh. Nhật Bản, một nước từ lâu bị người Trung Quốc coi là quốc gia mới của những kẻ cướp biển, đã đánh bại một cách thuyết phục Hạm đội Bắc Hải mới được hiện đại hóa của nước láng giềng to lớn khiến triều đình nhà Thanh phải mất mặt. Khi đã đánh bại Trung Quốc, Nhật Bản trở thành nước châu Á đầu tiên gia nhập vào hàng ngũ các cường quốc trước đó chỉ gồm các nước phương Tây. Thất bại này là một sự sửng sốt đối với triều đình nhà Thanh đặc biệt khi họ chứng kiến hoàn cảnh xảy ra của nó chỉ ba thập kỷ sau khi Nhật Bản tiến hành các cuộc Minh Trị cải cách biến nước này có khả năng ganh đua với các nước phương Tây về các thành quả kinh tế và kỹ thuật của họ. Cuối cùng vào tháng 12 năm 1894 chính phủ nhà Thanh đưa ra một số bước kiên quyết nhằm cải cách thể chế quân sự và đào tạo lại một số đơn vị đã được lựa chọn nhằm tây phương hóa trình độ tác chiến, vũ khí và chiến thuật của họ. Các đơn vị đó được gọi là Tân thức lục quân Quân đội kiểu mới. Kết quả thành công nhất của việc này là Bắc Dương Quân nằm dưới sự giám sát và điều khiển của cựu chỉ huy Hoài Quân, vị tướng người Hán Viên Thế Khải, người đã tận dụng vị trí của mình để trở thành một Tổng thống Cộng hòa độc tài và cuối cùng thành một vị hoàng đế trong thời gian ngắn của Trung Quốc. Sự sụp đổ của triều đại Nhà Thanh Quân đội nhà Mãn Thanh vào giữa thế kỷ 19 có phẩm chất tướng lãnh ngày càng xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Trong cuộc chiến chống lại Thái Bình Thiên quốc, nhà Thanh phải chấp nhận để nhiều đội quân kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân... Điều này dẫn tới việc vào cuối thế kỷ 19, Nhà Thanh không còn một quân đội quốc gia mà phải tận dụng dân quân và quân đội địa phương, vốn thiếu trung thành với triều đình trung ương. Các sĩ quan trung thành với cấp trên của họ và hình thành những bè phái dựa trên vị trí địa lý. Các đơn vị quân đội tuyển quân ngay tại tỉnh đó. Chính sách này là nhằm giảm sự hiểu nhầm phương ngữ nhưng lại khuyến khích khuynh hướng cát cứ, địa phương hóa. Nhà Thanh đã đi vào vết xe sụp đổ của nhà Hán và nhà Đường trong quá khứ. Tới đầu thế kỷ 20, hàng loạt các vụ náo động dân sự xảy ra và ngày càng phát triển. Từ Hi và Hoàng đế Quang Tự cùng mất năm 1908, để lại một khoảng trống quyền lực và một chính quyền trung ương bất ổn. Phổ Nghi, con trai lớn nhất của Thuần Thân Vương, được chỉ định làm người kế vị khi mới hai tuổi, và Thân Vương trở thành người nhiếp chính. Tiếp theo sự kiện này Tướng Viên Thế Khải bị gạt khỏi chức vụ của mình. Tới giữa năm 1911 Thuần Thân Vương lập ra "Chính phủ gia đình hoàng gia", một hội đồng cai trị của Chính phủ Hoàng gia hầu như gồm toàn bộ các thành viên thuộc dòng họ Aisin Gioro. Việc này khiến các quan lại cao cấp như Trương Chi Động tỏ thái độ bất mãn. Cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương diễn ra vào ngày 10 tháng 10 năm 1911 dẫn đến cuộc Cách mạng Tân Hợi, và tiếp sau đó là sự tuyên bố thành lập một chính phủ trung ương riêng biệt, Trung Hoa Dân Quốc, tại Nam Kinh với Tôn Dật Tiên làm lãnh đạo lâm thời. Nhiều tỉnh bắt đầu "ly khai" khỏi quyền kiểm soát của nhà Thanh. Chứng kiến tình trạng này, chính phủ Thanh dù không muốn cũng buộc phải đưa Viên Thế Khải trở lại nắm quân đội, kiểm soát Bắc dương quân của ông, với mục tiêu nhằm tiêu diệt những người cách mạng. Sau khi lên giữ chức Tể tướng Nội các tổng lý đại thần và lập ra chính phủ của riêng mình, Viên Thế Khải còn tiến xa nữa khi buộc triều đình phải cách chức nhiếp chính của Thuần Thân Vương. Việc cách chức này sau đó được chính thức hoá thông qua các chỉ thị của Hiếu Định Cảnh hoàng hậu. Khi Thuần Thân Vương đã buộc phải ra đi, Viên Thế Khải và các vị chỉ huy bên trong Bắc dương quân của mình hoàn toàn nắm quyền chính trị của triều đình nhà Thanh. Ông cho rằng không có lý do gì để tiến hành một cuộc chiến tranh gây nhiều tốn phí, đặc biệt khi nói rằng chính phủ nhà Thanh chỉ có một mục tiêu thành lập một nền quân chủ lập hiến. Tương tự như vậy, chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của vị ấu vương, Phổ Nghi. Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ. Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm. Vậy là thông qua bài viết này, du khách đã có thêm sự hiểu biết phần nào về triều đại Nhà Thanh. Lịch sử - đất nước - con người Trung Hoa còn có rất nhiều điều thú vị đang chờ đón du khách đến khám phá. Hãy để Viet Viet Tourism mang đến cho du khách một chuyến du lịch Trung Quốc trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhé!
Bảo mật & CookieThis site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control giả Sử Chí Hoành Shi ZhihongViện kinh tế Viện khoa học xã hội Trung QuốcNguyễn Quốc Vương dịch từ tiếng AnhDẫn NhậpTừ những năm đầu của thế kỉ 15, người châu Âu đã bắt đầu các cuộc phát kiến địa lý để tìm ra những con đường mới tới phương Đông, nơi mà đương thời người ta tin rằng nó có đầy vàng, bạc và hương liệu. Theo sau dấu chân của các nhà hàng hải vĩ đại, những người đã khám phá ra các con đường biển từ châu Âu tới châu Á và lục địa mới là châu Mĩ và cùng với việc hoàn thành chuyến đi vòng quanh thế giới bắt đầu từ Châu Âu vào cuối thế kỉ 15 đầu thế kỉ 16, những người châu Âu đã mở rộng sức mạnh và ảnh hưởng của họ trên khắp thế giới báo hiệu một kỉ nguyên mới với đặc trưng là sự cướp bóc thuộc địa trong lịch sử thế giới hiện cuộc đại phát kiến và sự bành trướng thuộc địa theo sau không chỉ mang lại những tiến bộ chưa từng thấy trong sự phát triển xã hội và kinh tế ở Tây Âu và thúc đẩy sự tăng tiến của chủ nghĩa tư bản ở đây mà còn làm thay đổi lớn lao bản đồ chính trị thế giới. Một vài quốc gia nhỏ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh vốn nằm ở bên ngoài nền văn minh Châu Âu giờ đây nổi lên như những siêu quyền lực của thế giới sở hữu uy thế về hải quân và lãnh thổ trên biển rộng lớn đi kèm. Sự bành trướng ra khắp thế giới của chủ nghĩa tư bản phương Tây đang lên tạo ra bộ mặt của thế giới là dòng chảy chính của lịch sử thế giới hiện đại. Dưới dòng chảy dữ dội này, nhiều nền văn minh cổ xưa ở châu Á, châu Phi và châu Mĩ đã suy tàn hoặc biến Quốc với tư cách như là một bộ phận của thế giới đã không tìm thấy lối ra để tránh khỏi dòng chảy này. Thực tế nền văn minh Cathaysian, một trong những nền văn minh cổ và huy hoàng nhất trên thế giới, bắt đầu xuống dốc từ thế kỉ 16 đã tạo ra hình ảnh tương phản với sự nổi lên mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Rất đúng khi nói rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển trong vài trăm năm tiếp theo, nhưng dưới hệ thống tọa độ thế giới và so sánh với Tây Âu, thì không còn nghi ngờ gì nữa trong thời kì này Trung Quốc đã bước đi chậm chạp và dần bị phương Tây bỏ lại phía sau trong kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học, công nghệ và nhiều lĩnh vực Quốc cuối cùng cũng bị phương Tây đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện 1840-1842 và bắt đầu giai đoạn lịch sử nhục nhã trong hơn một trăm năm kể từ đó đã diễn ra như thế nào? Tại sao một quốc gia vĩ đại chưa hề thua kém bất cứ một quốc gia nào khác ở vào thời điểm bắt đầu của các cuộc phát kiến địa lý và do có lãnh thổ rộng lớn và dân số đông đảo sức mạnh quốc gia của nó chắc chắn là đứng đầu thế giới vào thời gian đó lại suy sụp và cuối cùng bị đánh bại? Điều này có thể được phân tích ở nhiều phương diện lịch sử trong chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng và văn hóa, khoa học công nghệ, mâu thuẫn nội tại, mối quan hệ với bên ngoài và sẽ có các câu hỏi khác nhau được đưa ra. Trong bài báo này, tác giả sẽ trình bày chi tiết quan điểm chính sách ngoại giao bảo thủ tiến hành bởi nhà Minh và nhà Thanh ít nhất cũng là một trong những lí do quan trọng làm cho Trung Quốc rơi vào định mệnh nếu như nó không phải là nhân tố quan trọng nhất. Đó chính là bởi các chính sách ngu dốt và thiển cận đã làm Trung Quốc mất đi cơ hội cạnh tranh với phương Tây để tiếp tục duy trì vị trí tiên phong trên thế giới trong khi cơ hội này đã tồn tại rất dài sau các cuộc đại phát chất của nhà Minh và chính sách ngoại thương đầu triều Chính sách ngoại thương của nhà Minh 1368-1644Nhà Minh thực thi chính sách cấm biển và nghiêm cấm người dân ra nước ngoài trong giai đoạn đầu và giai đoạn giữa. Trong những năm này, ngoại thương hợp pháp chủ yếu là mậu dịch triều cống có nghĩa rằng chỉ có thuyền nước ngoài tới triều cống mới được phép buôn bán với Trung Quốc. Không phải tất cả các nước ngoài đều được phép triều cống triều đình mà phải là những nước có tên được ghi chép chính thức trong Đại Minh hội điển Da Ming Huidian bộ sưu tập các bộ luật của nhà Minh và các thuyền triều cống chỉ được đến vào thời gian được quy định chính thức. Các thuyền triều cống được phép đến cũng chỉ được mang theo một số lượng hàng hóa nhất định để bán bên cạnh những món đồ được chuẩn bị để dâng lên hoàng đế. Tất cả các thuyền phải neo ở nơi các cảng biển duyên hải được chỉ định và trình lên kanhe một giấy phép đặc biệt do nhà Minh cấp cho các sứ thần nước ngoài để kiểm tra. Chính quyền nhà Minh mở ba cảng biển truyền thống đối với thế giới bên ngoài Ning Ba Ningbo ở tỉnh Triết Giang Zhejiang, Tuyền Châu Quanzhou ở tỉnh Phúc Kiến và Quảng Châu Canton ở tỉnh Quảng Đông. Đặc biệt những tổ chức được gọi là Shibo Tiju Shi được lập ra ở ba cảng trên đảm đương việc tiếp đón các sứ thần từ nước ngoài tới và quản lý các hoạt động ngoại thương tại cảng. Ở kinh đô, đặt tại Nam Kinh trong thời gian 1368-1421 và Bắc Kinh trong thời gian 1421-1644, một tổ chức được gọi là Huitong Guan Hội đồng quán với chức năng tương tự được lập ra trực thuộc Bộ Lễ. Tất cả các hoạt động buôn bán với người Trung Quốc tại các cảng biển hay ở Hội Đồng Quán đều đặt dưới sự giám sát của các quan chức triều mại triều cống hoàn toàn bị triều đình kiểm soát và luôn được coi như là một bộ phận của ngoại thương quốc gia nhưng không được coi là hoạt động thương mại đơn thuần. Điều này rất khác với đầu thời nhà Minh khi vương triều mới thành lập đang phát triển với sức mạnh chính trị thống nhất, sức mạnh của quân đội và nền kinh tế huy hoàng vì thế các hoàng đế có tham vọng thu nhận các sứ thần nước ngoài để có thêm danh tiếng và uy tín hòng chứng tỏ Trung Hoa là quốc gia vĩ đại. Trong lịch sử Trung Hoa, sự thăm viếng của các thuyền triều cống nước ngoài từ bên ngoài thế giới đã được coi như là danh dự của quốc gia và là tín hiệu của kỉ nguyên hưng thịnh. Để thu hút thêm các quốc gia phái thuyền đến, các vua đầu triều nhà Minh đã thực thi chính sách giá cao và miễn thuế đối với các món hàng triều cống và hàng hóa đi kèm trên các con thuyền này. Dưới chính sách này, chính quyền nhà Minh không chỉ đáp lại các món đồ triều cống nước ngoài bằng các phần quà có giá trị mà còn mua phần lớn các món hàng hóa đi kèm trên thuyền với giá cao hơn giá trị thực của chúng và cho phép các hàng hóa còn lại được bán ra ngoài chợ, thường thì chúng là những món đồ rẻ tiền. Các mệnh lệnh đặc biệt về miễn thuế thường được đưa ra bởi các vua đầu vương triều nhà Minh mặc dù theo như quy định của triều đình thì tất cả các hàng hóa do các thuyền triều cống bán ra đều phải nộp thuế với tỉ lệ nhất hấp dẫn bởi thương mại sinh lợi dưới chính sách ưu đãi này, nhiều quốc gia ở biển phía đông và phía nam đã phái các con thuyền triều cống tới Trung Quốc vào đầu thời nhà Minh. Trong thời gian trị vì của vua Hồng Vũ 1368-1398, có hơn một tá các quốc gia đã triều cống nhà Minh được ghi chép lại. Sau các chuyến đi của Trịnh Hòa tới biển phía tây trong thời gian trị vì của hoàng đế Vĩnh Lạc 1403-1424 và hoàng đế Tuyên Đức 1426-1435, phạm vi ngoại thương của nhà Minh được mở rộng tới ngoại biên của Ấn Độ Dương bao gồm Tây Á và bờ biển phía đông của Châu Phi và các quốc gia phái thuyền triều cống tới Trung Quốc tăng lên tới hơn 30 nước. Thương mại triều cống đã đạt tới thời kì hoàng kim trong thời gian luôn phải ưu tiên cho sự tính toán về chính trị, thương mại triều cống đem lại rất ít lợi ích cho nền kinh tế nhà Minh. Trên thực tế, chi phí mà nhà Minh bỏ ra lớn hơn nhiều so với lợi nhuận thu được từ nó. Để tiếp nhận các sứ thần triều cống và đoàn tùy tùng của họ, nhà Minh đã phải dùng rất nhiều tiền mỗi năm trong việc cung cấp cho họ nhà ở và thức ăn trong thời gian họ ở Trung Quốc, bảo vệ họ suốt cuộc hành trình qua các cảng biển duyên hải và khi họ tới kinh đô, đáp lễ lại họ và các ông vua của họ bằng các món quà Trung Hoa. Đặc biệt sau các chuyến đi của Trịnh Hòa, do sự cập bến thường xuyên ngày một nhiều của các thuyền triều cống nước ngoài và sự mở rộng quy mô phái đoàn ngày càng có nhiều thương nhân mang theo các hàng hóa đi cùng với thuyền triều cống nên nhà Minh đã cảm thấy không chỉ khó khăn trong việc đón tiếp họ mà chi phí tài chính chi trả cho việc đón tiếp các sứ thần nước ngoài cũng dần trở thành gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Bởi thế quy mô và phạm vi thương mại triều cống đã bị giới hạn. Kể từ triều vua Vĩnh Lạc, triều đình nhà Minh đã dần dần tiến hành hệ thống ban hànhkanheđối với mỗi quốc gia triều cống và bắt đầu hạn chế sự thăm viếng thường xuyên của các con thuyền của họ cũng như số lượng thuyền và số lượng người của phái đoàn mỗi lần triều cống. Để việc quản lí thương mại trở nên dễ dàng hơn, thậm chí triều đình nhà Minh còn đặt ra các lộ trình cụ thể và các cảng biển được chỉ định cho thuyền của từng quốc gia. Ví dụ theo Đại Minh hội điển, người Nhật chỉ có thể thực hiện triều cống 10 năm một lần và thuyền của họ phải vào cảng Ninh Ba và số lượng người của mỗi phái đoàn cho mỗi lần triều cống không vượt quá 300 và không quá 3 chiếc thuyền. Ryukyu Lưu Cầu nay là Okinawa của Nhật chú thích của người dịch thực hiện triều cống 2 năm một lần và vào cảng Tuyền Châu với số lượng người không quá 100, Zhancheng champa, Zhenla Cam-pu-chia, Xiêm và các quốc gia ở biển tây thực hiện triều cống 3 năm một lần và vào bến Quảng Châu CantonViệc đặt ra ngày càng nhiều các giới hạn đối với các thuyền triều cống nói lên rằng nhà Minh đã trở nên kém mặn mà với việc đón tiếp các con thuyền triều cống nước thảm họa nghiêm trọng do các hải tặc người Nhật mang đến vào giữa thời Minh đã làm cho chính sách ngoại giao của quốc gia trở nên bảo thủ và tự ti hơn và cuối cùng đã dẫn tới việc cấm biển dưới thời vua Gia Tĩnh 1522-1566. Sự quấy rối của hải tặc Nhật đã bắt đầu từ giữa thế kỉ 14 nhưng nó chưa trở thành vấn đề nghiêm trọng cho tới cuối thế kỉ 15 khi người Nhật bước vào Thời kì chiến quốc. Trong thời kì này, các cuộc nội chiến và các cuộc nổi loạn trong nước đã tạo ra một số lượng lớn các võ sĩ lang thang, họ tụ tập trên biển và tiến hành các hoạt động cả trong vai thương nhân và cướp biển, thường xuyên quấy rối vùng duyên hải đông nam Trung Quốc. Sự tranh giành giữa các phái đoàn triều cống khác nhau được phái tới bởi các lãnh chúa Nhật lớn, nhỏ vào thời gian đó cũng mang tới tai họa cho Trung Quốc. Một cuộc bàn cãi sôi nổi về chính sách ngoại thương đã nổ ra trong triều đình nhà Minh sau sự kiện khẳng định quyền triều cống giữa hai phái đoàn được cử đến bởi hai lãnh chúa Nhật khác nhau vào năm 1523. Kết quả của sự tranh giành này là hoàng đế Gia Tĩnh đã giải tán các Shibo Tiju Si ở tất cả các cảng duyên hải và tuyên bố cấm biển trong cùng năm đó. Cánh cửa ngoại thương đã đóng cấm nghiêm ngặt trên biển không chống lại được sự quấy rối của hải tặc Nhật nhưng đã gây hại cho ngoại thương thông thường của Trung Quốc. Kể từ đó không có kênh nào để cho thương nhân Trung Quốc và thương nhân người nước ngoài buôn bán, buôn lậu trên vùng duyên hải đông nam đã bắt đầu trở nên sôi nổi hơn bất cứ khi nào trước đó. Các kẻ chuyên quyền ở địa phương và những thương nhân giàu có ở các tỉnh đông nam, đôi khi cũng được các quan chức địa phương hậu thuẫn, đã đóng vai trò đi đầu trong buôn lậu. Các thương nhân Trung Hoa đầy quyền lực này thường được vũ trang và đồng thời cũng là cướp biển đã thông đồng với người Nhật thậm chí đóng giả là người Nhật để giết người cướp của trong khu vực miền duyên hải. Nhà Minh tuyên bố cấm biển nhưng không làm gì nhiều để tăng cường phòng thủ cả ở bờ biển và trên mặt biển. Trong phần lớn thời gian dưới triều vua Gia Tĩnh, cả hải tặc Nhật thật và giả đã hoành hành ở khu vực duyên hải Đông nam Trung Quốc và gây thiệt hại nặng cho sự phát triển thương mại, kĩ nghệ của biển cũng làm sụt giảm thu nhập hàng năm của nhà Minh. Đặc biệt đối với tài chính địa phương ở Triết Giang và Phúc Kiến bởi vì phần lớn sự tiêu dùng của hai tỉnh này là đến từ ngoại thương và cấm biển đã làm cho các tỉnh này gặp thêm nhiều khó khăn về tài chính so với các tỉnh khác. Những yêu cầu từ bỏ lệnh cấm chưa bao giờ ngừng dưới triều vua Gia Tĩnh và phần lớn được chủ trì bởi các viên chức tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, các cuộc tranh cãi nảy lửa về chính sách ngoại thương đã diễn đi diễn lại trong triều nhà Minh. Do vấn đề hải tặc Nhật quấy rối đã được giải quyết cơ bản vào cuối thời vua Gia Tĩnh, nhà Minh đã thay đổi chính sách trên biển bắt đầu từ sự lên ngôi của vua Long Khánh 1567-1572. Từ năm 1567, thương nhân Trung Quốc được phép ra nước ngoài buôn bán với các quốc gia ở Biển Đông và Biển Tây ngoại trừ Nhật Bản và các thuyền nước ngoài trừ các thuyền đến từ Nhật Bản được phép đến Trung Quốc. Năm 1599, Shibo Tiju Si được tái lập ở Quảng Châu Canton và Ninh Ba Ningbo. Vì vậy chính sách cấm biển được thực thi từ đầu triều Minh cuối cùng đã được hủy bỏ. Nhưng sự chuyển đổi này đến quá muộn khi chỉ còn có vài thập kỉ nữa là triều Minh chấm nhiên, cuối cùng việc mở biển cũng đem đến cho ngoại thương một không gian hợp pháp cho sự phát triển bình thường của nó. Đặc biệt đối với thương mại phi chính phủ chỉ việc những người Trung Hoa thông thường buôn bán với nước ngoài, đã giải phóng năng lượng bị dồn nén bởi chính sách cấm biển. Thương mại phi chính phủ đã tồn tại kể từ khi triều Minh ra đời và chưa bao giờ gián đoạn thậm chí ngay cả trong thời gian lệnh cấm biển được thực thi nghiêm ngặt nhất. Nó đã trở thành làn sóng không thể cưỡng lại kể từ giữa thời Minh, với sự phát triển nhanh chóng của kĩ nghệ thủ công và thương mại trong nước, đặc biệt ở phần phía đông nam, mở cửa ra thị trường bên ngoài đã trở thành một yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Buôn lậu với quy mô lớn trong thời vua Gia Tĩnh đã bùng nổ trong bối cảnh lịch sử đó. Sau khi lệnh cấm biển được dỡ bỏ, thương mại phi nhà nước đã trở nên ngày càng hưng thịnh hơn bất cứ khi nào trước đó. Yuegang, một thành phố bận rộn nhất có tiền thân là một làng đánh cá nhỏ ở huyện Chương Châu Zhangzhou, tỉnh Phúc Kiến, tham gia vào hoạt động buôn lậu trên biển kể từ giữa thời Minh, đã trở thành một cảng biển nổi tiếng nhất đối với những người dân Trung Quốc đi ra nước ngoài ở vào thời gian đó. Theo một tác giả sống vào cuối thế kỉ 16, tích lũy thương mại của những người ra nước ngoài buôn bán từ cảng Yuegang không hề thua kém hàng trăm ngàn lạng vàng mỗi năm kể từ thời vua Long tăng cường sự quản lý ngoại thương, nhà Minh đã lập ra hạt Hải Thành Haicheng tại Yuegang và đặt ra một cơ quan đặc biệt gọi là Du Xiang Guan ở đó để thu thuế sau khi mở biển năm 1567. Chính quyền hạt ra điều kiện rằng tất cả các thuyền ra nước ngoài phải có giấy phép đặc biệt Chuan Yin và phải trả một khoản chi phí nhất định. Có chỉ tiêu đối với việc ban hành các giấy phép đó mỗi năm, lúc đầu nó là 88 và sau đó tăng lên tới 100 và 210. Tất cả các thuyền đi ra biển bị giới hạn về kích cỡ và không được phép mang theo vũ khí cũng như các món hàng phi pháp khác. Họ chỉ được phép đến những nước mà ông chủ họ đã đề nghị trước đó và phải trở về trước khi hết hạn thời gian được phép tất cả những điều đó được viết rất rõ ràng trên giấy phép đã được ban hành. Cùng với phí thông hành, chính phủ thu ba loại thuế khi thuyền trở về, đó là thuế với tên gọi shui xiang đánh vào thuyền căn cứ theo kích thước, lu xiang đánh vào hàng hóa mang từ nước ngoài về, và jiaeng xiang được áp dụng đối với các thuyền trở về từ Luzon nơi thường không có hàng hóa nào được mang về ngoại trừ đồng bạc mặt lý thuyết mà nói thì việc cho phép dân thường đi ra nước ngoài rõ ràng là một cải cách tích cực trong chính sách ngoại thương vào cuối thời Minh. Tuy nhiên nó đến quá muộn để đem lại lợi ích thực sự cho Trung Quốc. Với sự phát triển của rất nhiều mâu thuẫn nội tại giữa xã hội và tầng lớp thống trị kể từ giữa thời Minh, vương triều dần đi xuống và đã không có sức mạnh hoặc là tham vọng để tìm kiếm chính sách tích cực trên biển ở vào thời gian này. Việc cho phép người dân đi ra nước ngoài không có nghĩa rằng đó là sự mở cửa thị trường ngoài nước của Trung Quốc do chính nó khởi xướng như các nước phương Tây đã làm ở thời gian đó mà chỉ là hành vi bị động do sự tác động của xu hướng thương mại phi nhà nước. Việc nó đặt ra vô số giới hạn đối với những người dân ra nước ngoài chỉ ra rằng nó quan tâm tới sự an toàn hơn là mở ra thị trường ngoài nước và mong muốn đặt mọi thứ dưới sự kiểm soát của vương mại phi chính phủ ở vào cuối thời Minh đã phát triển ấn tượng bởi những người dân thường, những gì chính phủ làm đối với sự phát triển này chỉ đơn thuần là kiếm soát nó ở mức càng nhiều càng tốt để thu thuế. Tất nhiên, dưới tình trạng quản lý tồi tệ vào cuối Minh, đây không phải là nhân tố hay mà là nhân tố có lại, chính sách ngoại thương của nhà Minh trước sau như một có tính chất bảo thủ. Nó đã quan tâm tới sự an toàn của bản thân vương triều hơn là lợi ích kinh tế, thứ có thể thu được từ ngoại thương. Nó chưa bao giờ tự có khát vọng mở cửa thị trường ngoài nước thông qua khuyến khích mọi người đi ra ngoài và phát triển thương mại phi nhà nước. Thương mại triều cống, chủ yếu có hiệu lực vào đầu thời nhà Minh, đã thực sự được coi như là một phương tiện ngoại giao để thu lấy thanh thế cho vương triều, khía cạnh chính trị trong nó ưu thế hơn hẳn so với khía cạnh kinh giữa triều Minh, chủ yếu dưới thời vua Chính Đức 1506-1521, khía cạnh chính trị của chính sách ngoại thương đã bị làm yếu đi trong một thời gian khi nhà Minh thực sự cho phép các thuyền buôn nước ngoài không chỉ là các thuyền triều cống đến và bán hàng hóa của họ ở Trung Quốc sau khi đóng thuế với tỉ lệ khoảng 2/10. Những cải cách này đã nhanh chóng bị thay thế bởi lệnh cấm biển hoàn toàn trong triều vua Gia Tĩnh tiếp theo. Sau khi mở biển dưới thời vua Long Khánh các thuyền nước ngoài không gặp phải giới hạn nào khi đến Trung Quốc và những người dân thường được phép đi ra nước ngoài nhưng ở trong nội địa thì như chúng tôi đã nói ở trên, nó không có nghĩa rằng các vua nhà Minh đã thực thi chính sách tự do thương mại như các quốc gia phương Tây đã làm ở cùng thời gian thương nhân người nước ngoài buôn bán với Trung Quốc ở các cảng biển phải tiến hành buôn bán thông qua các cơ quan do chính phủ chỉ định, việc giao thương trực tiếp với người Trung Quốc bị nghiêm cấm. Và quan trọng hơn, việc cho phép mọi người đi ra nước ngoài không phải là chính phủ muốn mở rộng thị trường ngoài nước mà đơn giản chỉ là vì không thể ngăn cản người dân làm việc đó, tức là không có lựa chọn nào khác và vẫn có những quy định cấm đoán riêng rẽ đối với những người đi ra nước ngoài. Vì vậy chúng tôi phải nói rằng chính sách ngoại thương của nhà Minh về bản chất vẫn rất bảo thủ ngay cả sau khi mở biển ở vào giai đoạn Chính sách ngoại thương đầu nhà Thanh 1644-1840Tình hình mở cửa thương mại với các quốc gia nước ngoài vào cuối thời Minh kéo dài không lâu. Nó lại được thay thế bằng chính sách cấm biển vào đầu triều Thanh Mãn Châu vương triều thay thế nhà Minh thống trị Trung Hoa từ năm 1644. Trong những thập kỉ đầu của vương triều, nó đã phải dồn hết sức lực để chống lại các thế lực phản Thanh của những người Hán nhằm phục hưng vương triều đã bị phế truất. Bởi vì nhiều lực lượng Hán ở vào thời điểm đó tập hợp ở vùng duyên hải đông nam khi rút chạy khỏi lục địa và chiếm đóng các hòn đảo ven bờ coi chúng thành trì của họ, nhà Thanh tuyên bố cấm biển không lâu ngay sau vào Bắc Kinh năm 1644. Tuy nhiên lệnh cấm không thể tiến hành một cách có hiệu quả cho tới khi những mệnh lệnh nghiêm ngặt hơn được đưa ra năm 1661 khi quân đội Mãn Châu đánh bại Trịnh Thành Công Zheng Chenggong, lãnh tụ nổi tiếng nhất và quan trọng nhất của lực lượng phản Thanh ở vùng đông nam trong nửa sau triều vua Thuận Trị 1644-1661 ở lục địa và buộc ông ta cùng quân lính phải tháo chạy ra biển. Theo lệnh mới, tất cả mọi người sống ở vùng duyên hải phải rút lui một hai chục km vào đất liền sau khi phá hủy toàn bộ tài sản nhằm cô lập quân phản Thanh ở ngoài biển. Lệnh cấm trên biển được thực thi chặt chẽ đến độ vào những ngày biển động không có một chiếc thuyền nào từ đất liền được phép ra biển và tất cả các thuyền từ nước ngoài đều bị cấm vào các cảng trong đất liền. Trong thời gian đó, lục địa gần như ngừng tất cả các quan hệ thương mại với nước ngoài ngoại trừ quy mô giới hạn ở Thanh tái mở biển và cho phép người dân ra nước ngoài trở lại vào năm 1684, một năm sau khi vuơng triều Trịnh Zheng ở Đài Loan đầu hàng bởi cuộc tấn công mãnh liệt của hạm đội từ đất liền. Năm tiếp theo, bốn trạm hải quan được đặt ra ở Quảng Châu tỉnh Quảng Đông, Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến, Ninh Ba tỉnh Triết Giang và Tùng Giang tỉnh Giang Tô một cách tách biệt nhau để buôn bán với nước ngoài. Do đó, sau 40 năm cấm biển, quan hệ thương mại của Trung Quốc với nước ngoài cuối cùng cũng bắt đầu bình thường trở lại. Trong nửa sau triều vua Khang Hi 1662-1722, không chỉ các thuyền buôn nước ngoài có thể đến để buôn bán với Trung Quốc tại tất cả các cảng biển mở mà các hoạt động thương mại của các thương nhân Trung Hoa cũng phát triển nhanh chóng cho dù sự đi ra nước ngoài của họ vẫn đặt dưới sự cấm đoán nhất định. Thương nhân Trung Hoa cũng như những người đi ra nước ngoài sinh sống có thể thấy gần như là ở khắp nơi ở cả các quốc gia ở biển phía nam và biển Đông. Đặc biệt ở Đông Nam Á số lượng người Hoa từ các vùng duyên hải đông nam tham gia vào buôn bán hoặc sống ở đó thậm chí còn nhiều hơn cả thời kì cuối triều Minh. Người ta cho rằng chỉ ở Jakarta thôi, số lượng người Hoa sống ở đó vào thời điểm khi ấy đã vượt quá tình hình này cũng không duy trì lâu. Kể từ những năm cuối của triều vua Khang Hi, chính sách trên biển của chính phủ nhà Thanh đã trở nên bảo thủ, tự ti trở lại và nó đã khiến Trung Quốc dần dần bước chân vào tình trạng nhà nước đóng cửa nửa chừng đối với những mối giao thiệp quốc tế cho tới khi nó bị đánh bại trong cuộc Chiến tranh thuốc phiện 1840-1842. Sự thay đổi bắt nguồn từ mối lo ngại sâu sắc rằng lực lượcng phản Mãn Thanh ở trong nước vốn đã tồn tại thậm chí ngay cả khi người Mãn thống nhất toàn bộ quốc gia sẽ thông đồng với người Hán ở nước ngoài để tiêu diệt sự thống trị của nhà Thanh. Với số lượng người Hán đi ra nước ngoài sinh sống ngày càng nhiều và nhiều người trong số họ định cư ở nước ngoài bất chấp quy định rằng họ phải trở về nhà sau một thời gian nhất định, hoàng đế Khang Hi và vài cận thần nhận ra rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng. Người ta nói rằng vị hoàng đế này đã gửi các đặc vụ bí mật tới Luzon những năm sau đó khi được tâu trình rằng vài hậu duệ của vua Minh bị phế truất có thể vẫn sống ở đó. Mặc dù việc điều tra không có kết quả và vấn đề không được giải quyết nhưng nó đã nâng cao thêm sự cảnh giác của hoàng đế. Bởi vậy năm 1717, hoàng đế Khang Hi ra lệnh cấm những chiếc thuyền tới biển phía nam và đồng thời nhà Thanh ban hành một loạt các lệnh cấm khác nghiêm ngặt hơn đối với các thuyền ra biển và tăng cường kiểm soát tại các cảng bờ biển. Tất cả những người đã định cư ở nước ngoài phải trở về Trung Quốc trong vòng 3 năm và nếu kẻ nào dám vi phạm lệnh cấm cư trú ở nước ngoài một lần nữa kẻ đó sẽ bị dẫn độ về nước và bị xử tử. Mặc dù lệnh cấm đối với các con tàu đi tới biển phía nam được dỡ bỏ vào năm 1727 dưới sức ép mạnh mẽ từ trong triều đình và giới bình dân, lệnh cấm cư trú ở nước ngoài đối với người dân và lệnh cấm đối với những thuyền đi ra nước ngoài không hề giảm nhẹ mà ngày càng trở nên nghiêm ngặt hơn. Do lệnh cấm của chính quyền, thương mại của Trung Quốc với vùng biển phía nam thứ đã từng hưng thịnh trở nên tàn tạ kể từ thế kỉ bán với các thuyền nước ngoài tại các cảng biển duyên hải cũng được đặt dưới sự quản lý ngặt nghèo hơn trước đó. Chính quyền nhà Thanh mở 4 cảng biển để buôn bán với người nước ngoài trong những năm đầu sau khi mở biển. Nhưng chính sách này đã thay đổi dưới triều vua Càn Long 1736-1795 để dễ bề kiểm soát hoạt động của người nước ngoài trên đất Trung Quốc. Kể từ giữa thời Minh, thuyền nước ngoài tới Trung Quốc bằng đường biển đã không giới hạn trong các nước triều cống truyền thống mà còn đến từ các nước phương Tây xa xôi. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và sau đó là người Anh đã nối tiếp nhau tới phương Đông. Những người phương Tây tới phương Đông khi đó không phải chỉ là các thương nhân mà còn có cả cướp biển với những hạm đội tàu được trang bị đầy đủ. Kể từ khi những người phương Tây nổi lên trên biển Trung Hoa, họ liên tục quấy rối các cảng bờ biển cùng lúc họ buôn bán với Trung Quốc. Trong suốt thời gian đầu thời Thanh, từ nửa sau thế kỉ 17 tới nửa đầu thế kỉ 18 mặc dù các quốc gia thực dân sớm như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan đã lần lượt suy sụp, thực dân Anh đầy triển vọng đã trở nên ngày một mạnh hơn và đầy tham vọng. Thương mại của Anh với Trung Quốc dưới sự kiểm soát của các công ty Đông Ấn trong thời nhà Thanh bắt đầu từ thời hoàng đế Khang Hi và phát triển đều đặn từ những năm 1720. Trước hết, các thương nhân Anh chỉ buôn bán với người Trung Quốc ở Quảng Châu Canton. Nhưng từ năm 1755 và trong hai năm tiếp theo, chủ yếu là do không bằng lòng với sự cấm đoán thương mại ở Quảng Châu cũng như thuế xuất nhập khẩu của hải quan Quảng Đông đánh quá nặng, công ty Đông Ấn cũng đã gửi các thuyền tới Ninh Ba nơi môi trường buôn bán tốt hơn ở Quảng Châu và gần vùng sản xuất các mặt hàng chủ lực hơn. Người Anh mua ở Trung Quốc lụa, trà, bôngNhà Thanh cảm thấy cực kì lo lắng với việc người Anh thay đổi thương cảng bởi vì nó không chỉ làm giảm thu nhập của hải quan Quảng Đông mà nó còn dẫn tới sự định cư của người nước ngoài tại vùng duyên hải khác và tạo nên một Macao nữa -thứ hoàng đế cho rằng nguy hiểm nhất. Trước hết hoàng đế cố gắng chặn các thuyền của thương nhân Anh đi tới Ninh Ba bằng việc tăng thuế tại hải quan Triết Giang nhưng việc này thất bại. Vì vậy vào mùa đông năm 1757, hoàng đế tuyên bố rằng vào đầu năm tiếp theo, tất cả những thuyền buôn bán với Trung Quốc chỉ có thể neo đậu ở Quảng Đông và không thuyền nào được phép vào Ninh Ba. Đây là một sự thay đổi quan trọng trong chính sách ngoại thương vào đầu thời nhà Thanh thứ có nghĩa rằng cánh cửa mở ra với bên ngoài đã khép lại một nửa dưới triều vua Khang thời gian đó, chính quyền nhà Thanh tăng cường kiểm soát các hoạt động của người nước ngoài tại các cảng thương mại. Trong quản lý thương mại của người nước ngoài tại các cảng thương mại, nhà Thanh tiếp tục thực thi luật lệ của các cơ quan được bắt đầu từ thời nhà Minh. Theo quy định, tất cả các thương nhân người nước ngoài phải tiến hành công việc làm ăn của mình với một số thương nhân Trung Hoa đặc biệt do nhà Thanh chỉ định và không được buôn bán trực tiếp với người dân thường. Cho dù họ bán hay mua thì họ cũng chỉ được phép trao đổi với các thương nhân hoặc người môi giới do nhà Thanh chỉ định. Ngay vào những năm nhà Thanh mở các cảng biển cho tàu nước ngoài vào buôn bán, các chính quyền địa phương bắt đầu lựa chọn các nhân viên trong số các thương nhân để tiến hành việc buôn bán các món hàng nước ngoài. Ở Quảng Châu, những nhân viên này thường được gọi là thương nhân Hang bởi vì phường hội của họ được gọi là Hang cách gọi cũ của Hong hoặc Yanghuo Hang. Số lượng các thương nhân Hang ở thời điểm cao nhất lên tới 26 hoặc hơn và thấp nhất là 4 nhưng thông thường trong lịch sử người ta gọi là 13 Hang. Các thương nhân Hang lập ra một tổ chức gọi là Gong Hang Co-hong năm 1720, thứ tan rã trong năm tiếp theo nhưng lại được phục hồi năm 1760. Trong những năm Quảng Châu đóng vai trò như cảng mở chính dành cho người nước ngoài trước cuộc Chiến tranh thuốc phiện, Gong Hang là trung gian qua đó các thương nhân phương Tây có thể buôn bán với Trung Quốc và thương nhân Hang được trao cho độc quyền tuyệt đối trong việc buôn bán với thương nhân nước ngoài. Gong Hang và các thành viên của nó thậm chí còn đảm đương việc thu thuế và nợ cho chính phủ và trong tất cả các hoạt động với nước ngoài nó đóng vai trò làm trung gian giữa chính quyền địa phương và người nước ngoài bởi vì trong thời kì đó người nước ngoài không được phép liên lạc với các quan chức Trung Quốc trực khi đóng cửa tất cả các cảng thương mại trừ Quảng Châu, chính quyền Thanh đã ban hành nhiều luật lệ để hạn chế các hoạt động của người nước ngoài ở Trung Quốc. Theo các luật lệ, quy định này, thương nhân người nước ngoài phải giới hạn nơi cư trú tại nơi được chỉ định trong thời gian họ ở Trung Quốc và phải chịu một loạt các chế định khác đối với hoạt động và cư xử của họ nếu như họ không muốn bị trục xuất và mất đi lợi nhuận thương Quảng Châu, nơi được chỉ định dành cho người nước ngoài cư trú là vùng đất kéo dài bên ngoài thành phố, nơi dưới sự giúp đỡ của Gong Hang, các thương nhân đến từ nước ngoài đã xây dựng các căn nhà gọi là shang guan từ này có nghĩa nhà máy trong cảm quan cũ của cư dân hoặc là có nghĩa nơi ở của người đại diện cùng phòng tài vụ, kho hàng, kho bạc và nhà ở. Trước năm 1840, có 59 shang guan ở Quảng Châu và có hơn một nửa trong số đó thuộc về các thương nhân người Anh. Tất cả các thương nhân người nước ngoài tới Quảng Châu buôn bán phải sống trong chính Shang guan của họ và số lượng những người nước ngoài đi theo không được quá 5 người. Không một người phụ nữ hay trẻ em hoặc loại vũ khí nào được phép mang tới Shang guan. Tất cả các thương nhân nước ngoài phải rời Trung Quốc hoặc trở lại Macao ngay khi họ kết thúc việc buôn bán, không một ai trong số họ được phép ở lại Quảng Châu qua mùa đông. Khi sống trong Shang guan, người nước ngoài bị cấm liên lạc với người Trung Quốc ngoại trừ các thương nhân Hang và các phiên dịch viên của họ, cấm dời Shang guan nếu không có các thương nhân Hang hoặc các phiên dịch viên đi kèm khi cần thiết, cấm thuê mướn các đầy tớ người Trung Quốc, cấm ngồi kiệu. Người nước ngoài không được phép liên lạc trực tiếp với các viên chức người Trung Quốc nếu có gì trình bày thì điều này phải được thực hiện thông qua các thương nhân Hang. Thương nhân Hang phải giám sát và chăm sóc mọi thứ đối với người nước ngoài trong thời gian họ ở đây, từ những điều thiết yếu của đời sống tới thái độ cư xử và các hoạt động của họ và họ bị cấm mượn tiền của người nước ngoài. Các quy định cũng quy định rằng tất cả các thuyền chiến nước ngoài đóng vai trò hộ tống các thuyền buôn không được phép vào Bogue và các thuyền buôn vào hoặc dời Bogue được đặt dưới sự kiểm soát toàn diện của các hoa tiêu và nhà nhà tư sải mại bản Trung Quốc những người đã đăng kí với cơ quan hành chính địa phương của Trung Quốc ở Macao và đã nhận được giấy phép, nếu có bất cứ sự buôn hậu hay điều phi pháp nào xảy ra trên thuyền, người chủ thuyền sẽ bị trừng phạt. Mặc dù những quy định, luật lệ tầm thường tẻ ngắt này trên thực tế chỉ là trên giấy trong nhiều trường hợp, chúng đã thực sự phản ánh sự lo lắng, cảnh giác của các vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài. Bằng việc tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về chính sách ngoại thương trong đầu thời nhà Thanh, chúng ta phải nói rằng trong phần lớn thời gian của hơn hai trăm năm này, Trung Quốc đã là nhà nước đóng kín hoặc đóng kín một nửa đối với thế giới bên ngoài ngoại trừ một vài thập kỉ trong giai đoạn sau của triều vua Khang Hi. So sánh với triều Minh, thái độ của các ông vua nhà Thanh đối với thế giới bên ngoài trở nên bảo thủ hơn. Vì vậy việc đánh giá chính sách đối ngoại của đầu triều Thanh như là chính sách đóng cửa về cơ bản là sát với tình hình thực do thực thi chính sách ngoại thương bảo thủ trong thời Minh và đầu thời những gì đã chỉ ra ở phần đầu bài viết này, từ nhà Minh tới đầu nhà Thanh, chính xác hơn là từ cuộc phát kiến địa lý vào giữa thời Minh cho tới chiến tranh thuốc phiện, là thời kì chủ nghĩa tư bản trưởng thành ở Tây Âu và mở rộng ảnh hưởng của nó tới toàn bộ thế giới thứ đã dẫn tới những sự thay đổi vĩ đại trong trật tự thế giới truyền thống. Đó chính thời điểm mà sức mạnh hải quân, các nền văn minh ở nhiều phần trên thế giới, vốn tách biệt nhau bởi không gian địa lý bắt đầu trao đổi, cạnh tranh làm cho thế giới sau đó xích lại gần hơn. Trong thời kì này, những quốc gia phấn đấu cho quyền lực biển và chú tâm vào thương mại, buôn bán trên biển đã dẫn đầu con sóng lịch sử và tiến về phía trước. Người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Hà Lan và sau này là người Anh tất cả đã chộp lấy quyền lực trên biển và phát triển thương mại biển. Nhưng Trung Quốc, một quốc gia có nền văn minh lâu đời vốn không thua hề thua kém các nước phương tây cả về kĩ thuật hàng hải và các nhân tố bên trong để phát triển thương mại biển đã chống lại dòng chảy đó và thực thi một chính sách bảo thủ hạn chế thậm chí cấm buôn bán với nước ngoài. Vậy thì, điều này đã diễn ra như thế nào? Tác giả nghĩ rằng ít nhất lý do nằm ở các khía cạnh sau đây truyền thống lịch sử, văn hóa của Trung Quốc, thực tế chính trị mà hai vương triều đã đối mặt vào thời điểm đó, tình hình phát triển kinh tế trong lịch sử Trung Quốc và cuối cùng là hệ thống kinh tế tương đối toàn diện của Trung Quốc với tư cách là một nước Ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, lịch sử Trung QuốcCathaysian, chủ thể mang trên mình nền văn minh Trung Hoa cổ xưa, là một quốc gia chuyên về trồng trọt. Văn minh Cathaysian, ngay từ khi bắt đầu, đã có đặc trưng là nền văn minh nông nghiệp. Nó coi trọng sự phát triển nông nghiệp và coi trồng trọt như là một nguồn của cải xã hội trong khi mặt khác nó coi khinh thương mại khi coi nó là một nhân tố không có gì là quan trọng đối với nền kinh tế. Tư tưởng trọng nông ức thương được đẩy mạnh trong suốt thời kì Chiến Quốc 475-221 trước CN đã trở thành xu hướng chính của tư tưởng kinh tế Trung Hoa và được các ông vua tin tưởng và theo đuổi xuyên suốt toàn bộ lịch sử Trung Quốc kể từ từ nhà Tần và nhà Hán 221 sau CN. Vào cuối thời kì phong kiến, với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và thương mại tư tưởng coi thường thương mại đã bị thử thách ở một vài khu vực, nhưng thế thượng phong của nó trong giới nho sĩ và chính sách kinh tế của nhà nước thì không hề thay đổi. Các ông vua của triều Minh-Thanh tiếp tục duy trì chính sách coi nông nghiệp là nền tảng kinh tế trong khi thương mại chỉ được coi đóng vai trò phụ trong nền kinh tế thứ cần thiết nhưng không đáng phải khuyến khích. Trong tư tưởng truyền thống Trung Hoa, thương mại và thương nhân thường bị cho là có liên quan tới với việc bán đắt với giá cắt cổ và hưởng thụ cuộc sống xa hoa vô độ. Vì thế sự phát triển quá mức của thương mại không chỉ gây hại cho kinh tế nông nghiệp thông qua việc tiêu tốn một số lượng lớn nhân lực của việc trồng trọt mà còn làm hư hỏng xã hội nói chung. Tư tưởng trọng nông ức thương truyền thống của Trung Hoa rõ ràng đã đi ngược lại làn sóng tranh giành thương mại trên biển lúc đương thời. Kể từ phát kiến địa lý, chủ nghĩa trọng thương đã trở thành thịnh hành trong giới kinh tế Tây Âu. Tất cả các quốc gia biển ở đó đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quay vòng hàng hóa và nhập khẩu kim loại quý đối với sự thịnh vượng của quốc gia ở thời kì này. Tất cả các nước đều chủ động hỗ trợ phát triển thương mại trên biển thông qua sử dụng sức mạnh quốc gia. Thương mại thuộc địa của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, kỉ nguyên người đánh xe ngựa trên biển của Hà Lan và sự thành lập của đế chế Anh đều là kết quả của chủ nghĩa trọng thương và chính sách quốc gia. Tuy nhiên, trong kỉ nguyên như vậy, các hoàng đế Trung Quốc vẫn chủ trương ức thương. Vì vậy rõ ràng là họ không có khả năng thực thi một chính sách ngoại thương tích cực để khuyến khích các thương nhân đi ra ngoài và mở rộng thị trường cho quốc gia. Khái niệm truyền thống Hoa Di của Trung Hoa cũng là một lý do quan trọng. Khái niệm này là thái độ chính trị văn hóa tự coi mình là trung tâm khẳng định rằng văn minh Trung Hoa là ưu việt hơn các nước khác. Mặc dù kiểu thái độ này là đặc điểm chung của tất cả các nền văn minh cổ tương đối phát triển nói chung, nhưng do vị trí địa lý đặc biệt của Trung Quốc tách biệt với các nền văn minh cổ đại khác bởi rào cản tự nhiên bốn mặt, cũng như vị trí thuận lợi của văn minh Trung Hoa và thế giới của nó mà chủ nghĩa coi mình là trung tâm của người Trung Quốc rất mạnh và từ đó Trung Quốc đã không chỉ tạo ra một khái niệm có tính kết hợp và hệ thống là Hoa Di mà liên quan đến khái niệm này, họ đã phát triển thành một hệ thống tính cách và nguyên tắc trong giải quyết các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Theo khái niệm này, Trung Quốc là trung tâm của thế giới và hoàng đế Trung Quốc là Thiên tử thay trời cai trị toàn bộ thế giới. Bên ngoài Trung Quốc nơi các hoàng đế trực tiếp cai trị là những vùng do Man Di sinh sống ở những quốc gia dã man. Mặc dù tất cả các quốc gia này đều hung dữ và hoang dã, hoàng đế vẫn luôn mong muốn tặng quà cho họ và coi họ như chư hầu nếu như họ có nguyện vọng muốn được khai hóa và công nhận sự cai trị của họ thông qua triều cống triều đình. Lý tưởng cao nhất của hoàng đế Trung Quốc cổ đại là thành lập một trật tự thế giới trong đó ông ta là người cai trị toàn bộ các quốc gia trên thế nhiên chủ nghĩa coi mình là trung tâm của Trung Quốc về bản chất không có nghĩa là hiếu chiến hoặc dũng cảm. Nó nhấn mạnh sự ưu việt của Trung Quốc trên thế giới nhưng nó chưa bao giờ thiên về bành trướng và chưa bao giờ muốn ép buộc các nước khác chấp nhận một thế giới thống nhất đặt dưới sự cai trị của Trung Quốc. Nó diễn tả sự khuất phục của các nước khác dưới đạo đức và sức mạnh kiểu mẫu của Trung Quốc. Do đó nó đặt trọng tâm vào việc bảo vệ nền văn minh Trung Hoa và duy trì trật tự bên trong chống lại những ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài hơn là mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc tới thế giới. Đây là dấu hiệu thực sự để phân biệt Trung Quốc với các nước khác. Từ cách nhìn của các hoàng đế Thiên Triều, trật tự cai trị bên trong là thiêng liêng và bất khả xâm phạm, nó là thứ đã làm nên Trung Quốc kể từ khi nó trở thành quốc gia văn minh. Vì vậy, nó hoàn toàn cần thiết để các hoàng đế thực thi mọi biện pháp có thể để chống lại sự đầu độc của những người dã man bên ngoài. Chỉ khi các quốc gia bên ngoài có mong muốn quan sát phong tục và hệ thống lễ nghi Trung Hoa, thứ đã tạo ra trật tự cai trị bên trong Trung Quốc, họ mới được chấp nhận và đón tiếp chu đáo. Nhưng nếu họ dám thay đổi những phong tục và hệ thống này họ sẽ bị trục xuất và cấm niệm Hoa Di đã không gây trở ngại cho việc Trung Quốc mở rộng ra ngoài thế giới trong buổi đầu lịch sử, đặc biệt vào thời kì mà nó là quốc gia hùng mạnh như dưới thời nhà Hán 206 Đường 618-907. Tại thời kì đó, sự hùng mạnh của quốc gia đã làm cho các hoàng đế của Trung Quốc có đủ tự tin và mở rộng liên lạc với thế giới bên ngoài, cảm giác ưu việt về Thiên Triều và văn hóa Trung Hoa có lẽ đã ở mức cao nhất về mặt tâm lý. Nhưng từ thế kỉ 16, đặt biệt là từ sau thế kỉ 17, nền văn minh Trung Hoa phát triển cao đã phải đối mặt với một nền văn minh mới chưa từng nghe thấy do những người châu Âu mang đến với tàu chiến, thứ mà ít nhất xét ở mức độ nguyên liệu nó không hề thua kém Trung Quốc mà ở nhiều khía cạnh dường như nó còn vượt xa cả Trung hình này đã làm chao đảo Thiên Triều của các hoàng đế. Vì vậy như một phản ứng bản năng đối với ảnh hưởng phương Tây, thái độ của các hoàng đế đối với thế giới bên ngoài bắt đầu ngày càng trở nên tiêu cực. Tất nhiên họ chưa bao giờ mong muốn thừa nhận đứng ngang bằng với các quốc gia phương Tây không chỉ vì người phương Tây vẫn được coi là những người bán khai mà còn vì những nước phương Tây buôn bán với Trung Quốc vẫn tiến hành triều cống. Nhưng đây cũng chỉ nhằm mục đích bảo vệ lòng tự trọng của Thiên Triều ở vẻ ngoài và về mặt tâm lý mà thôi. Trên thực tế sự tự tin của Thiên Triều về sức mạnh của mình đã suy sụp. Bởi vậy, các vua ở thời Minh -Thanh đã chuyển vị trí của tổ tiên họ là mở ra thế giới sang bảo vệ văn minh Trung Hoa và trật tự cai trị khỏi ảnh hưởng của nước ngoài bằng chính biên giới của nó. Đây là lý do cơ bản giải thích tại sao các hoàng đế trong thời kì này nhấn mạnh và coi trọng việc phân ranh giới giữa người Trung Quốc và người nước ngoài đồng thời thực thi chính sách ngoại thương bảo Ảnh hưởng của thực tế chính trịẢnh hưởng của thực tế chính trị đối với chính sách ngoại thương cũng không thể bỏ qua bởi vì mục đích đầu tiên của bất cứ vương triều nào khi làm chính sách cũng là đảm bảo sự cai trị an toàn của mình. Lý do trực tiếp của chính sách cấm biển tiến hành trong thời kì đầu và giữa nhà Minh là sự quấy rối không ngừng của hải tặc Nhật Bản ở vùng viển đông nam, thứ như chúng ta đã đề cập ở trên, đã bắt đầu từ ngay những năm đầu sau khi thành lập vương triều Minh và không hề chấm dứt cho tới giữa thế kỉ 16. Vấn đề nghiêm trọng của mối đe dọa xâm lược của người Mông Cổ ở phía bắc trong cùng thời gian cũng tạo ra chính sách nói trên. Vào đầu triều Minh, nhà Nguyên vốn rút lui vào sa mạc phía bắc Vạn Lý Trường Thành sau khi bị Chu Nguyên Chương đánh bại vẫn có trong tay một bộ phận quân lính và chưa bao giờ từ bỏ nỗ lực tái kiểm soát toàn bộ quốc gia. Về sau mặc dù Mông Cổ bị chia tách ra làm nhiều phần và nhà Nguyên Bắc Nguyên cuối cùng cũng biến mất vào đầu thế kỉ 15, nhưng mối đe dọa xâm lược đến từ người Mông Cổ không hề mất đi cho tới khi một thỏa thuận hòa bình giữa Minh và Tartar Khan dưới triều vua Long Khánh 1567-1572 được xác lập. Bởi vì phải hướng sự tập trung vào sự xâm lược ở phía bắc trong thời kì này, thứ được các nhà sử học cho rằng đây là một trong hai sự xâm lược của nước ngoài trong suốt thời nhà Minh, một cách tự nhiên đã làm cho nhà Minh không có khả năng thực thi một chính sách chủ động trong việc phòng thủ bờ biển chống lại hải tặc Nhật Bản. Sự cấm biển của nhà Minh vào cuối vương triều là thực tế nhằm thanh toán vấn đề hải tặc Nhật Bản đồng thời cũng là nhằm giải quyết vấn đề xâm lược của người Mông Cổ ở phía cấm biển của nhà Thanh trong những thập kỉ đầu thống trị của vương triều như một quyền lực quốc gia và việc duy trì hạn chế người dân tự do đi ra nước ngoài và sự hạn chế nghiêm ngặt tiếp xúc giữa người nước ngoài với người dân thường Trung Quốc tại các cảng biển sau khi từ bỏ lệnh cấm là bắt nguồn từ sự quan tâm tới chính trị trong nước, đó là nhằm mục đích loại bỏ mối liên hệ giữa các lực lượng phản Thanh ở lục địa và trên biển. Triều Thanh được lập nên bởi người thiểu số, những người cư trú ở phần đất xa xôi hơn phần lớn những người mà họ cai trị. Người Hán có số lượng lớn gấp vài trăm lần người Mãn Châu. Trước triều Thanh, ngoại trừ triều Nguyên được lập ra bởi người Mông Cổ trong một thời gian ngắn, không có quyền lực chính trị với tư cách như là một quốc gia thống nhất nào được tạo ra bởi người thiểu số ở Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, triều Mãn Thanh từ ngày đầu được thành lập và kiểm soát toàn bộ quốc gia đã chú tâm lớn tới việc bảo vệ vương triều trước sự kháng cự của người Hán, thứ không hề chấm dứt trong suốt thời gian vương triều Thanh tồn tại. Các vua Thanh biết rằng có hàng trăm ngàn người Hán sống ở Đông Nam Á, cách xa nơi họ có thể vươn quyền lực tới, và triều đình Thanh luôn coi những người Hán này là lực lượng phản Thanh tiềm tàng. Đó chính là lí do khi hoàng đế Khang Hi nói rằng triều Thanh phải thực thi những biện pháp cấm thương mại biển để ngăn chặn bất kì sự liên kết có thể nào giữa các lực lượng phản Thanh trong và ngoài Lý do kinh tếPhân tích từ khía cạnh kinh tế thấy rằng lí do thứ nhất mà trong suốt triều Minh và đầu triều Thanh, toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp truyền thống tự cung tự cấp hoặc bán tự cung tự cấp. Thực tế là trong thời gian này, kinh tế thương nghiệp đã tiến triển lớn với sự phát triển độc lập của thủ công nghiệp và thương mại nông nghiệp và mầm mống tư bản chủ nghĩa đã nổi lên kể từ giữa triều Minh nhưng tất cả những sự thay đổi này chỉ xảy ra ở một vài vùng và ở một vài lĩnh vực của nền kinh tế. Vào thời gian đó, động lực của việc mở cửa Trung Quốc đối với các mối quan hệ thương mại quốc tế phần lớn đến từ các tỉnh hưng thịnh ở vùng Đông nam nơi do sự phát triển cao về kinh tế thương nghiệp trong nông nghiệp và thủ công nghiệp thực sự cần tới thị trường ngoài nước nhất. Nhưng ở phần lớn hơn của quốc gia, như ở phần lớn các tỉnh trong đất liền bởi vì nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp hay bán tự cung tự cấp vẫn còn chiếm vị trí ưu thế cho nên không có yêu cầu cấp bách nào đối với thị trường ngoài nước. Bởi lý do này, bất cứ khi nào có tranh luận trong triều đình về việc mở cửa buôn bán với nước ngoài, tiếng nói ủng hộ cấm biển luôn chiếm ưu thế. Những ý kiến trái ngược khi đó phần lớn đến từ các quan chức quản lý các tỉnh phía Đông nam hoặc những người có quê ở đó. Trước những ý kiến mạnh mẽ đòi cấm biển hay đặt ngoại thương dưới những quy định cứng nhắc, ý kiến của họ khó có thể được chấp nhận trong nhiều trường hợp. Bên cạnh đó, điểm khởi đầu cho luận điểm của họ đối với chính sách mở cửa biển phần lớn là lợi nhuận từ thuế và sinh nhai của người dân ở vùng duyên hải, nhưng hiếm khi họ thảo luận về vấn đề từ tầm nhìn coi việc mở biển ở tầm quốc gia như là một chính sách trọng thương ở các quốc gia phương Tây. Điều này không nói lên điều gì ngoài sự yếu kém của kinh thế thương nghiệp của quốc gia tại thời điểm hai, chúng ta phải thừa nhận rằng Trung Quốc là một quốc gia lớn với nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống kinh tế quốc gia hợp nhất thứ có thể tạo ra phần lớn sản phẩm nó cần Nó đã có ít sự phụ thuộc vào nền kinh tế của thế giới bên ngoài. Trên thực tế, Trung Quốc trong ngoại thương khi đó chủ yếu đã đóng vai trò là nước xuất khẩu các sản phẩm thủ công và nông nghiệp nội địa chứ không phải là nước nhập khẩu các sản phẩm của nước ngoài. Nó xuất đi chè, tơ, lụa, gốm, vải dệt tay, hợp kim đồng-niken, đường, giấy, dược liệu, và nhập khẩu chủ yếu các thứ xa xỉ phẩm của nước ngoài ngoại trừ đồng của Nhật Bản, gạo của Xiêm và một số lượng nhỏ các sản phẩm công nghiệp phương Tây. Do lý do này, nó đã có được một cán cân ngoại thương mong muốn và xuất khẩu một số lượng lớn bạc hàng năm cho tới đầu thế kỉ 19 khi thương nhân người Anh bắt đầu vận chuyển thuốc phiện tới với số lượng lớn. Bất chấp ngoại thương có vai trò quan trọng như thế nào đối với một số vùng và một số ngành kinh tế của quốc gia tại thời điểm đó cũng như đối với những người có liên quan đối với toàn bộ quốc gia, nền kinh tế quốc gia và phần lớn dân số ảnh hưởng của ngoại thương vẫn rất yếu. Mức độ cao của hệ thống kinh tế tự cung tự cấp đã làm cho các vua triều Minh và các vua đầu triều Thanh nghĩ rằng không cần thiết phải đánh giá cao ngoại thương và luôn coi nó như là một đặc ân ban cho các quốc gia nước ngoài. Đó là những gì mà hoàng đế Càn Long đã nói trong lá thứ ông ta gửi cho vua Geogre III của nước Anh năm 1793 khi một đoàn quan chức ngoại giao do huân tước Macartney được phái tới Trung Quốc để hỏi về việc mở rộng mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, Thiên triều có thể sản xuất mọi thứ và không cần phải nhập thứ gì của nước ngoài. Nhưng do trà, gốm và lụa do Thiên triều sản xuất là cần thiết với các nước ở biển tây cũng như là các ngươi, để chứng tỏ sự hiểu biết, lòng cảm thông và ban tặng lòng nhân từ bao la của Thiên triều tới tất cả thần dân, chúng ta đã lập ra các công ty thương mại Yang hang ở Macao để đáp ứng nhu cầu của các ngươi. Thông qua lời nói nổi tiếng của hoàng đế được dẫn ra ở trên, một mặt chúng ta cảm nhận được sự kiêu ngạo và ngu dốt của ông ta đối với thế giới bên ngoài nhưng mặt khác những gì ông ta nói ở trên không phải hoàn toàn là vô lý. Đó là bởi vì Trung Quốc ít phụ thuộc vào ngoại thương khi nó là một quốc gia khổng lồ với hệ thống kinh tế quốc gia hợp nhất và khi phải lựa chọn giữa đạt được lợi ích thương mại và giữ gìn sự an toàn quốc gia, nhà Minh và các vua đầu nhà Thanh đã luôn dành ưu tiên cho lựa chọn thứ quả lịch sử của chính sách ngoại thương bảo thủ trong thời Minh và đầu thời kỉ nguyên của các cuộc phát kiến địa lý và các cuộc bành trướng thuộc địa của các quốc gia phương Tây bắt đầu vào giữa thế kỉ 15 và 16, Trung Quốc vẫn là một quốc gia mạnh trên thế giới và do lãnh thổ rộng lớn cùng dân số đông đúc, nó rõ ràng là quốc gia mạnh nhất trên thế giới ở thời điếm đó. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu bài báo này, đó cũng chính là thời điểm Trung Quốc bắt đầu đi xuống. Chính sách trên biển ngu xuẩn của nhà Minh và các vua đầu nhà Thanh đã làm cho Trung Quốc mất đi cơ hội để cạnh tranh với các quốc gia phương Tây và tiếp tục duy trì vị trí tiên phong trên thế người phương Tây bắt đầu tiến hành các cuộc phát kiến địa lý, Trung Quốc không phải là quốc gia không có khả năng kĩ thuật để tiến hành các cuộc thám hiểm trên biển. Ngay khi dưới thời nhà Tống 960-1279, Trung Quốc đã phát triển kĩ nghệ đóng tàu tiên tiến có thể đóng được rất nhiều loại thuyền vượt biển thích hợp với nhiều tình huống hàng hải khác nhau và lần đầu tiên trên thế giới nó vận dụng la bàn để đi biển. Vào đầu thời Minh, từ 1405 tới 1433, hạm đội khổng lồ của Trung Quốc do Trịnh Hòa chỉ huy đã đi vòng qua biển Nam Trung Hoa và eo Malacca, vào Ấn Độ Dương và đi tới tận bờ biển châu Phi trong một số cuộc viễn chinh. Chuyến đi của Trịnh Hòa chứng minh rằng Trung Quốc ở vào thời điểm đó có lực lượng thủy quân mạnh với kĩ năng đóng tàu và kĩ thuật đi biển tiên tiến và ở khía cạnh kĩ thuật thì thế giới vẫn không đuổi kịp thậm chí vào cả nửa thế kỉ sau khi những nhà hàng hải châu Âu như Diaz, Columbus và Da Gama bắt đầu các cuộc phát người phương Tây bắt đầu các cuộc phát kiến, Trung Quốc cũng không hề thiếu động lực kinh tế đối với việc mở biển buôn bán. Kinh tế thương nghiệp vào giữa triều Minh đã phát triển với tỉ lệ không ngờ. Kể từ giữa những năm 1400, với sự tăng trưởng nông nghiệp hàng hóa và thủ công nghiệp cá thể độc lập, sự phát triển của thương mại đã không chỉ đặt ra yêu cầu đối với thị trường nội địa mà còn đặt ra đối với thị trường ngoài nước. Đặc biệt ở các tỉnh duyên hải miền đông nam như Triết Giang, Phúc Kiến và Quảng Đông, nơi người dân có truyền thống buôn bán và sống ở nước ngoài, cùng với việc ngày càng có nhiều người đi ra nước ngoài bất chấp lệnh cấm của chính phủ, buôn lậu trên biển bắt đầu trở nên rầm rộ từ cuối những năm 1400. Tại thời điểm đó, dấu vết của người Trung Hoa có thể tìm thấy gần như là ở mọi ngóc ngách của Đông Nam vậy, sau một thời gian dài kể từ các cuộc phát kiến của người Châu Âu, Trung Quốc đã có tất cả những điều kiện cần thiết để tiến hành viễn chinh trên biển, thứ mà nó cần chỉ là chính sách khuyến khích từ chính quyền. Nếu triều Minh làm như vậy, có thể lịch sử tiếp theo sẽ phải viết lại. Nhưng thực tế rằng dưới chính sách không hoạt động ở xa tự ti và bảo thủ của các vua giữa triều Minh được tiến hành sau khi hạm đội của Trịnh Hòa kết thúc chuyến đi cuối cùng tới biển Tây vào năm 1433, Trung Quốc không chỉ từ bỏ các cuộc viễn chinh chính thức trên biển mà còn tiến hành chính sách cấm biển nghiêm ngặt đối với những người đi ra nước ngoài. Tiếp theo đó, như là nạn nhân của chính sách ngu xuẩn này, Trung Quốc đã mất đi cơ hội quý giá đi trước người phương Tây trong việc tìm kiếm thị trường ngoài nước trong thế kỉ 15 và một nửa thế kỉ sau khi những người châu Âu bắt đầu các cuộc viễn chinh trên biển, Trung Quốc đã chỉ còn là kẻ đứng nhìn thay vì là đối thủ cạnh tranh như lẽ ra phải đầu thế kỉ 16 cũng vẫn là thời gian quý giá đối với Trung Quốc trong việc mở ra các mối quan hệ thương mại trên biển. Trong thời gian này, trong số các quốc gia châu Âu mới chỉ có Bồ Đào Nha tới biển Tây Thái Bình Dương và đóng vai như là đối thủ tiềm năng của Trung Quốc, kẻ đóng vai trò đi đầu trong cấu trúc truyền thống của các mối quan hệ quốc tế ở đó. Người Bồ Đào Nha đi vòng qua mũi Hảo Vọng và tới phương Đông vào cuối thế kỉ 15. Nhưng từ thời điểm này trở đi, trong khoảng 50 năm, phạm vi thiết lập các thuộc địa và tìm kiếm các mối quan hệ thương mại ở phương Đông bị giới hạn tới Ấn Độ Dương và các quần đảo ở nam Thái Bình Dương. Nó đã không thâm nhập ảnh hưởng tới Đông Á cho tới những năm 1540-1550 khi nó thành lập cứ điểm thương mại ở Nhật Bản Kyushu và Trung Quốc Macao. Nhưng Trung Quốc cũng đã đánh mất cơ hội này. Ngay vào những năm 1510, triều Minh bắt đầu tiếp xúc với người Bồ Đào Nha. Lần đầu tiên là vào năm 1513 khi một thương nhân tên là Jorge Alvares tới Tunmen, tỉnh Quảng Đông và ở đây một thời gian ngắn. Sau đó vào năm 1517, một phái đoàn chính thức do vua cử đã tới nhằm thiết lập quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Nhưng triều đình nhà Minh đã không hoặc không muốn hiểu tín hiệu đến thăm của những người phương Tây ở mức độ tối thiểu. Họ đã coi những người mới đến này như những thương nhân và sứ thần triều cống truyền thống. Do không bằng lòng với cách cư xử của người Bồ Đào Nha ở Trung Quốc và việc nước họ chiếm đóng Macao trước đó, nhà Minh đã trục xuất phái đoàn và bắt giữ người chỉ huy là Tome Pires vào năm 1522. Hai năm sau, như chúng ta đã biết, nhà Minh tuyên bố cấm biển nghiêm ngặt và đóng các cảng thương mại dành cho người nước ngoài do sự quấy rối của hải tặc Nhật. Khi nhà Minh tái mở cửa dưới triều vua Long Khánh năm 1567, thế giới bên ngoài xung quanh Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều. Từ giữa những năm 1500 tới đầu thế kỉ 17, không chỉ người Bồ Đào Nha đã mở rộng quan hệ thương mại từ Nam Thái Bình Dương tới phần lớn các phần thuộc Nam Á và Đông Á mà cả người Tây Ban Nha và người Hà Lan theo sau cũng tới phương Đông để tranh giành vị trí của Bồ Đào Nha trong buôn bán với phương Đông. Người Tây Ban Nha đến phương Đông từ phía Tây qua Philippines và thiết lập con đường tơ lụa trên biển giữa Mexico và Manila không lâu sau khi họ chiếm Luzon năm 1565. Họ cố gắng buôn bán với Trung Quốc một cách trực tiếp và gửi một phái đoàn ngoại giao tới Bắc Kinh năm 1580 nhưng phái đoàn bị giữ lại tại Quảng Châu và gửi trả lại Manila. Sau đó người Tây Ban Nha phần lớn buôn bán với người Hoa ở Manila và vận chuyển hàng hóa Trung Hoa từ đó tới Mexico dọc theo con đường tơ lụa trên Thái Bình Dương. Người Hà Lan tới Châu Á từ đầu thế kỉ 17. Họ cũng cố gắng tiếp xúc với Trung Quốc nhưng bị ngăn cản bởi người Bồ Đào Nha, những người đã chiếm đóng Macao từ năm 1557. Sau khi đuổi khỏi quần đảo Bành Hồ, nơi họ chiếm từ năm 1622, bởi quân Trung Quốc năm 1624, Hà Lan bắt đầu xâm chiếm Đài Loan và chiếm đóng toàn bộ đảo này năm 1642. Bởi vậy khi nhà Minh dỡ bỏ lệnh cấm biển và tái mở cửa, Trung Quốc đã phải đối mặt với một thế giới rất khác so với trước đó. Tại thời điểm này, không chỉ tất cả các con đường thương mại dẫn tới các lục địa khác đã bị các quốc gia phương Tây kiểm soát mà trong khu vực thương mại truyền thống của Trung Quốc ở khu vực Tây Thái Bình Dương, người Trung Quốc đã phải đối mặt với những thách thức mạnh mẽ bởi những người phương Tây, những người đã mở rộng ảnh hưởng của mình và giành lấy lợi nhuận thương mại bằng đại bác và gươm. Nhưng thậm chí ngay cả trong tình huống này, nếu triều Minh sử dụng sức mạnh quốc gia để cạnh tranh với các quốc gia phương Tây vẫn có thể làm được nhiều điều cho lợi ích thương mại của Trung Quốc ít nhất là ở châu Á bởi vì nó vẫn có sức mạnh trong khu vực cả ở quân sự và kinh không may, nhà Minh không làm điều đó. Nhà Minh vẫn không hiểu tín hiệu thay đổi bên ngoài thế giới và thực thi chính sách thích hợp. Việc bãi bỏ lệnh cấm biển và cho phép mọi người đi ra nước ngoài chỉ là do nó không thể ngăn cản mọi người làm vậy chứ không phải là nó khuyến khích mọi người đi ra ngoài. Trái lại, nó đã đặt tất cả các chướng ngại trên con đường trước khi người dân ra nước ngoài và mở cửa thị trường. Do thiếu sự hậu thuẫn của nhà nước, các thương nhân Trung Hoa đã không thể cạnh tranh với thương nhân phương Tây ở thị trường ngoài nước bằng đôi chân bình đẳng, thứ đã gây trở ngại cho sự phát triển của thương mại Trung Quốc trong thời kì đó. Sản phẩm của Trung Quốc đã có mặt trên thị trường thế giới sau đó nhưng bởi vì tất cả các con đường thương mại dẫn tới thị trường bên ngoài Tây Thái Bình Dương đã bị kiểm soát bởi các quốc gia phương Tây, thương nhân Trung Quốc đã phải giới hạn các hoạt động của họ trong khu vực buôn bán truyền thống, những gì mà họ có được trong tình huống này thực chất không thể sánh được với những gì thương nhân phương Tây có cho dù những gì mà thương nhân phương Tây làm lúc đó cũng chỉ là chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Thậm chí trong khu vực buôn bán truyền thống, người Trung Quốc cũng ở vị trí không mấy dễ chịu, bởi vì những người mà họ buôn bán với giờ đây không phải là các cá nhân riêng lẻ như bản thân họ mà đằng sau các thương nhân đó còn có sức mạnh quyền lực nhà nước. Các quốc gia phương Tây ở thời điểm đó đã chiếm hết thuộc địa này tới thuộc địa khác trong khu vực buôn bán truyền thống của Trung Quốc ở châu Á và đã kiểm soát gần như tất cả các thị trường chính ở đó, bên cạnh đó, họ tiến hành buôn bán không phải chỉ bằng các phương tiện kinh tế mà bằng lực lượng quân đội và chính trị. Trong tình huống này, rõ ràng rằng những người Trung Quốc đi ra nước ngoài, những người không có gì trong tay ngoại trừ hàng hóa cần thiết cho thị trường trên khắp thế giới, không thể làm gì hơn trong cạnh tranh với các quốc gia phương Tây mặc dù họ mang lại cho quốc gia một số lượng bạc lớn hàng năm thứ thực sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế thương mại của Trung Quốc trong suốt thời kì cuối nhà thời gian đầu thời Thanh, xét toàn cục thì Trung Quốc đã tụt hậu đằng sau các quốc gia phương Tây tiên tiến một cách từ từ. Nhưng bởi nó vẫn là một quốc gia mạnh trên thế giới đi kèm với tầm vóc và sức mạnh quốc gia tổng hợp, vẫn còn có những cơ hội để nó có thể đuổi kịp phương Tây. Cơ hội quý giá nhất diễn ra vào cuối thể kỉ 17 khi các nước thực dân già như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha suy sụp, Hà Lan cũng đã trải qua thời hoàng kim trên biển và kể từ khi các hoạt động thực dân của nó chủ yếu diễn ra ở Ấn độ và vùng lân cận, nó đã không còn là lực lượng chính trên biển ở Đông Á; trong khi Anh với tư cách là thực dân trẻ chưa đủ trưởng thành và đang lúng túng với các vấn đề trong nước sau cách mạng, thứ đã khiến Anh không thể mở rộng ảnh hưởng bằng tất cả sức mạnh nó có cho tới thế kỉ 18. Trong tình hình quốc tế thuận lợi như thế, nếu triều Thanh có kế hoạch chủ động và tiến hành các hoạt động trên biển và ủng hộ nghiêm túc đối với ngoại thương và tiến hành cải cách hiệu quả hệ thống trong nước để phát triển và đuổi kịp các nước phương Tây đặc biệt trong quân sự và khoa học kĩ thuật, số phận của Trung Quốc có thể sẽ không giống như những gì diễn ra trong lịch sử sau cơ hội này cuối cùng cũng tuột khỏi tay Trung Quốc. Trong những thập kỉ đầu tiên sau khi triều Thanh Mãn Châu thiết lập sức mạnh chính trị quốc gia vào năm 1644, do triều đại mới phải tập trung nỗ lực vào việc thống nhất quốc gia và giải quyết hàng loạt các vấn đề trong nước để tăng cường sự cai trị, nó không chỉ không thể làm gì trên biển mà còn phải ban hành lệnh cấm biển để cắt đứt sợi dây liên hệ giữa các lực lượng phản Thanh trên biển và lục địa. Khi thời kì này chấm dứt với sự thất bại của lực lượng phản Thanh họ Trịnh ở Đài Loan năm 1683, lẽ ra nó đã là cơ hội quý báu cho nhà Thanh lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động trên biển khi Mãn Châu đã củng cố được vương triều trên toàn bộ đất nước và nền kinh tế trong nước đã phục hồi khỏi những tàn phá của chiến tranh và đang trở thành phát đạt, thịnh vượng từng ngày. Tuy nhiên nhà Thanh đã không có bất cứ sự chú tâm và làm bất cứ thứ gì trong lĩnh vực này ngoại trừ dỡ bỏ lệnh cấm trên biển ngay sau khi tái chiếm Đài Loan. Hoàng đế Khang Hi là một trong những ông vua có tầm nhìn và hoàn hảo nhất trong lịch sử, người đã làm rất nhiều trong việc bảo vệ sự thống nhất chính trị và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như góp phần làm cho nền kinh tế phát triển. Ông đánh bại tất cả các quan điểm chống đối để đưa ra quyết định tiếp tục giữ lấy Đài Loan cho Trung Quốc sau khi tái chiếm nó và đổi chính sách cấm biển của vua cha. Đây là những thứ tốt đẹp ông đã làm. Nhưng ông ta chưa bao giờ thực sự nhìn về biển và nghĩ tới việc lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu một con đường phát triển mới thông qua tham gia chiến tranh thương mại biển với các quốc gia phương Tây. Ông ta thậm chí chưa bao giờ xây dựng lực lượng hải quân thực sự thứ có thể phòng thủ bờ biển Trung Quốc; thứ ông dùng để bảo vệ bờ biển trải dài của Trung Quốc là các khẩu pháo tại các cảng biển và một số lượng nhỏ lục quân tại các pháo đài ở đó. Ông là người có hiểu biết về phương Tây hơn bất cứ ông vua nào trong lịch sử và đã nhận ra rằng mối nguy hiểm tương lai đối với Trung Quốc sẽ đến từ phương Tây nhưng ông đã không thực thi bất cứ một biện pháp tích cực nào để giải quyết tình hình. Thái độ và chính sách của trong việc giải quyết mối nguy hiểm từ thế giới bên ngoài thực sự khác với các ông vua trước, đó là đóng cửa để giữ họ ở bên ngoài. Do lối tư duy bảo thủ và tiêu cực này, cũng như trạng thái tâm lý cảnh giác sâu sắc đối với những lực lượng nổi dậy người Hán, ông ta đã không chỉ chưa bao giờ có bất cứ sự hỗ trợ nào đối với những người đi ra nước ngoài mà trái lại đã đặt tất cả họ dưới sự giám sát như cấm người dân đóng các con thuyền đi biển lớn, không cho phép họ mang vũ khí thậm chí là vũ khí để họ tự vệ, cấm họ sống ở nước ngoài và cuối cùng ông ta đã ra lệnh cấm người dân đi tới biển nam trong những năm sau đó thứ đã gây hại lớn cho sự phát triển ngoại thương của Trung ở vào thời điểm chính sách thương mại trên biển của nhà Thanh trở nên ngày một bảo thủ, thứ cuối cùng đã dẫn tới sự cô lập hoàn toàn của Trung Quốc dưới triều vua Càn Long, những sự thay đổi mới đã diễn ra bên ngoài thế giới. Từ thế kỉ 18, nước Anh với tư cách là đế quốc biển mới nổi lên thay thế cho Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan trên thế giới. Nước Anh đã hoàn thành công cuộc tích lũy tư bản nguyên thủy trong nửa đầu thế kỉ 18. Sau đó ở nửa sau của thế kỉ với vị trí đứng đầu thế giới nó bắt đầu bước vào cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành công trường của thế giới vào đầu thế kỉ 19. Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi hoàn toàn cán cân sức mạnh giữa Trung Quốc và phương Tây, bỏ Trung Quốc xa ở phía sau các nước phương Tây tiên tiến. Từ đó đuổi kịp phương Tây và tìm kiếm quyền lực tối cao trên biển đối với Trung Quốc đã trở nên ngày càng khó nếu như không muốn nói là không triều đình nhà Thanh thậm chí tại thời điểm đó vẫn tỏ ra ngu dốt và hợm hĩnh trong giấc mơ ngu ngốc rằng Thiên triều là số một trên thế giới. Khi phái đoàn ngoại giao do huân tước Macarthney đến Trung Quốc vào năm 1793, phái đoàn vẫn được đối xử giống như các đoàn sứ thần triều cống. Hoàng đế Càn Long thậm chí không có hứng thú nhìn qua món quà mà họ mang tới, thứ thể hiện sức mạnh về khoa học và công nghệ tiên tiến cũng như lực lượng quân đội của nước Anh lúc đó. Hoàng đế Càn Long không biết rằng tình thế mạnh-yếu giữa phương Đông và phương Tây đang thay đổi đột ngột và thời kì hoàng kim của Thiên triều đã gần như khép lại. Có một chút khả năng rằng Trung Quốc có thể đuổi kịp phương Tây với tốc độ nhanh hơn nhưng nó đã chọn xu hướng tự đóng cửa và làm ngơ đối với thế giới bên ngoài. Lịch sử đã không lay chuyển được. Sự hèn mọn của quốc gia trong chiến tranh thuốc phiện và những thảm họa mà người Trung Quốc chịu đựng trong hơn 100 năm chính là kết quả của chính sách ngoại giao bảo thủ mà các vua triều Minh và Thanh, những người ngoảnh mặt trước trào lưu của thế giới thực bài đăng
Trong bối cảnh các nước tư bản phương Tây đua nhau nhòm ngó, xâm lược Trung Quốc thì nhà Thanh đã thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”. Chính sách đó không những không hạn chế được việc thương nhân châu Âu đưa hàng lậu vào Trung Quốc mà còn gây nên cuộc xung đột kịch liệt, dẫn đến sự suy sụp của chế độ phong kiến Trung Quốc. Vậy đáp án đúng là A.
Người Mãn Thanh khi vào Trung Quốc lập ra nhà Thanh và thi hành chính sách áp bức dân tộc, bắt người Trung Quốc ăn mặc theo phong tục người Mãn. Mua chuộc địa chủ người Hán, giảm thuế cho nông dân nhưng mâu thuấn dân tộc vẫn tăng dẫn đến khởi nghĩa nông dân khắp đối ngoại, nhà Mãn Thanh thi hành chính sách "bế quan tỏa cảng" trong bối cảnh bị sự nhòm ngó của tư bản phương tây dẫn đến sự sụp đổ của phong kiến. Cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã làm cho nhà Thanh sụp đổ.
Giải pháp “nhà đổi nhà” được kỳ vọng trở thành chất xúc tác khơi thông thị trường bất động sản thứ cấp, tạo cơ hội nâng chuẩn sống cho nhiều người cáo của các đơn vị nghiên cứu thị trường ghi nhận thị trường bất động sản thứ cấp Việt Nam đã tăng trưởng gần 3,5 lần trong 8 năm 2010-2018. Tuy nhiên quy mô vẫn thấp hơn 10 lần so với mức trung bình của các nước đang phát triển trong khu vực. Nếu được thúc đẩy, thị trường này có thể tạo ra một khối lượng giao dịch bổ sung trị giá hơn 25 tỷ USD vào năm 2025.“Thị trường nhà ở thứ cấp chưa thực sự phát triển vì đa phần người dân chưa muốn hoặc không muốn bán nhà. Đa số căn hộ ở Việt Nam mới được xây dựng trong vài năm trở lại đây và cư dân sinh sống ở những khu căn hộ này chưa lâu nên chưa tính đến chuyện bán đi căn hộ của mình”, một chuyên gia chia học từ SingaporeTại Singapore, thị trường nhà ở thứ cấp phát triển nhờ hàng loạt chính sách. Vào những năm 1960, quốc đảo này đối mặt tình trạng tương tự Việt Nam, khi phải đồng thời cải tạo chung cư cũ và tạo giao dịch cho thị trường thứ cấp. Mỗi năm, người dân Singapore cần có thêm căn nhà mới giữa lúc dân số tăng 4,3% mỗi năm. Quỹ đất hạn hẹp gây thiếu hụt nguồn cung nhà ở nghiêm trọng. Phần đông dân số Singapore sống trong chung cư cũ, chật bối cảnh đó, Cục Nhà ở và Phát triển Singapore và Quỹ Phòng xa Trung ương được thành lập nhằm giải quyết vấn đề nhu cầu nhà ở, tác động tích cực đến thị trường bất động sản, phát triển bền vững và thúc đẩy quy hoạch đô loạt chính sách được triển khai thúc đẩy tỷ lệ sở hữu nhà ở của người dân Singapore. Ảnh gian đầu, Cục Nhà ở và Phát triển Singapore cho thuê ngắn hạn hoặc và bán cho người dân dưới hình thức cho thuê dài hạn 99 năm, đồng thời cung cấp các khoản vay hỗ trợ người mua nhà. Chính sách linh hoạt này đã tạo ra sự thay đổi lớn về nguồn cung nhà ở chỉ sau ba sách này giúp nâng cao tỷ lệ sở hữu nhà của người dân. Các thống kê cho thấy tỷ lệ vay thế chấp mua nhà tính trên GDP ở hòn đảo này tăng lên 10% năm 1980, cao hơn so với mức 4% năm 1985, thị trường tiếp nhận xu hướng mới – “nhà đổi nhà”. Giai đoạn 1960-1985, căn hộ thuộc chương trình trên được bán trên cơ sở ai đến trước thì được phục vụ trước. Sau này, các hộ gia đình đã có nhà tìm cách nâng cấp nhà hoặc đổi sang khu vực khác sang trọng và tiện nghi hơn. Từ đó người sở hữu nhà do Chính phủ xây dựng được tận dụng chính căn nhà của họ để đổi sang nhà mới, thay đổi môi trường sống mới với căn hộ ở vị trí tốt hơn và có nhiều tiện ích này được phản ánh qua khối lượng giao dịch căn hộ do cơ quan này bán lại. Từ dưới 800 căn bán lại vào năm 1974 đã tăng lên căn vào năm 2004. Đến năm 2014, tỷ lệ người dân sở hữu bất động sản vượt mốc 90%.Các chính sách khơi thông thị trường bất động sản đã giúp tạo ra các khu nhà mới với tỷ lệ lấp đầy cao cùng rủi ro tồn kho gần như bằng không. Sự phát triển thị trường nhà ở, từ đó, cũng đồng hành với sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 1960-1999, GDP của hòn đảo này tăng bình quân 8% mỗi năm. Ngày nay, Singapore trở thành địa điểm đầu tư bất động sản hàng đầu khu vực. Doanh số bán căn hộ cao cấp tại đây tăng 72% trong quý I/2020 bất chấp Covid-19, theo Propery lệ dân số sở hữu nhà ở Singapore giai đoạn 1970-2015. Nguồn nghiệm cho Việt NamGiải pháp “Nhà đổi nhà” góp phần thúc đẩy thị trường nhà ở thứ cấp phát triển mạnh mẽ tại Singapore. Tuy nhiên, để áp dụng chính sách tương tự tại các quốc gia khác, đòi hỏi sự tiếp biến cho phù hợp với chính sách, môi trường kinh doanh và đặc tính thị chuyên gia nhận định chính sách được áp dụng thành công tại Singapore một phần do dân số và diện tích của quốc đảo này khá nhỏ, đồng thời sở hữu tiềm lực tài chính để tạo ra các quỹ phát triển nhà hiệu quả. Phần lớn hai cơ quan này nằm trong khối tư nhân, cụ thể là ngân hàng và đơn vị phát triển bất động sản nên khó tìm đưa ra các giải pháp đột quy mô còn khiêm tốn so với các quốc gia trong khu vực, thị trường Việt Nam được cho là cũng cần những giải pháp đột phá để kích thích sự phát triển của thị trường nhà ở thứ cấp, tạo động lực cho kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng sống của người phong cho mục tiêu này tại Việt Nam, Masterise Homes hợp tác ngân hàng Techcombank giới thiệu giải pháp “Nhà đổi nhà” Home for Home với kỳ vọng nâng chuẩn sống của người Việt, rút ngắn thời gian nâng cấp căn hộ, từ đó góp phần cải thiện tính thanh khoản của thị trường thứ làm được điều này, Masterise Homes đã điều chỉnh giải pháp phù hợp với nhu cầu cũng như năng lực tài chính của người Việt, từ đó giúp các gia đình có cơ hội nâng tầm cuộc sống từ chỗ ở hiện tại sang các dự án cao cấp tại Việt Nam mà không thanh toán bất kỳ khoản nào đến ngày bàn giao căn hộ mới. Các dự án cao cấp áp dụng bao gồm Masteri Waterfront, Masteri West Heights tại Hà Nội và Masteri Centre Point tại TP pháp Nhà đổi Nhà giúp rút ngắn quá trình nâng cấp chỗ ở. Đồ họa Masterise đây, người muốn đổi nhà thường đi theo lộ trình “bán nhà – tìm nhà ở tạm – tìm mua nhà mới” vốn tốn nhiều thời gian và chi phí, dẫn đến hạn chế việc bán và mua nhà “Home for Home”, khách hàng có thể sử dụng tài sản đảm bảo là bất động sản hiện hữu để được hỗ trợ 100% giá trị bất động sản tại Techcombank với lãi suất áp dụng 0%, không cần thanh toán bất kỳ chi phí nào từ khi giải ngân cho đến khi nhận nhà. Khi bàn giao căn hộ mới, khách hàng có thể trả tối thiểu 30% giá trị căn hộ mới, 70% còn lại có thể trả góp tối đa 35 năm. Trong toàn bộ hành trình đổi nhà, khách hàng chỉ cần chi phí đặt chỗ có hoàn lại ban đầu 50 triệu đồng để sở hữu căn hộ do Masterise Homes phát triển. Như vậy người mua nhà sẽ có thể chủ động và lên kế hoạch tài chính trong thời gian từ 2-3 thời gian tới, khi giá bất động sản toàn cầu dự đoán tăng mạnh nhờ các gói hỗ trợ lớn và sự phục hồi sau Covid-19, giải pháp “Nhà đổi Nhà” của Masterise Homes hứa hẹn trở thành chất xúc tác khơi thông thị trường thứ cấp tại Việt còn được xem là bước đi chiến lược của nhà phát triển này nhằm tạo giải pháp “Win-Win-Win” ba bên cùng có lợi. Ngoài việc mang đến lợi ích cho người mua tham gia chương trình, giải pháp cũng sẽ mang đến lợi ích cho nền kinh tế, đúng như cam kết của doanh nghiệp này về việc tạo ra các giá trị bền vững cho thị VnExpress
chính sách của nhà thanh