Có thể thấy phương thức trần thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện ở những điểm sau: a. Phương thức trần thuật được thể hiện ở ngôi kể và giọng điệu. - Người kể ở ngôi thứ ba, hóa thân vào nhân vật. - Nhịp kể chậm, giọng trầm lắng, đầy Những vấn đề lý thuyết này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về văn bản tự sự và vận dụng để khám phá phương thức trần thuật trong văn bản tự sự được giảng dạy ở chương trình môn Ngữ văn THPT. II. Phương thức trần thuật trong các truyện ngắn ở chương trình Ngữ văn Cấu trúc câu: S + say (s)/said hoặc tell (s)/told + (that) + S + V. Đây là loại câu tường thuật trong tiếng Anh thông dụng, thường để thuật lại những lời nói, câu chuyện của một người khác đã nói. Có 4 bước để tạo ra câu tường thuật ở loại này. Lưu ý: Động từ giới Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG 1. Đặc điểm hình thức của câu trần thuật – Đặc điểm "nổi bật" nhất của câu trần thuật là nó không có đặc điểm hình thức của câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán – nghĩa là nó không sử dụng những từ ngữ đặc trưng, từ ngữ riêng (các từ nghi vấn, từ odVz9. Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận được sự hướng dẫn của cô giáo Hoàng Thị Duyên – giảng viên tổ Lý luận văn học, các thầy cô trong tổ lý luận văn học cùng các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội 2. Nhân khóa luận hình thành, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các thầy cô giáo và các bạn sinh viên. Do hạn chế về thời gian, khả năng bước đầu tập nghiên cứu khoa học không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2011 Sinh viên Đỗ Thị Dương Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 3 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975” là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi, không trùng với tác giả nào khác. Những kết quả thu được là hoàn toàn chân thực và chưa có trong một đề tài nào khác. Hà Nội, tháng 05 năm 2011 Sinh viên Đỗ Thị Dương Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 4 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỤC LỤC TRANG MỞ ĐẦU....................................................................................................... 7 do chọn đề tài.......................................................................................... 7 sử vấn đề ............................................................................................. 9 đích nghiên cứu………………………………………………………12 hạn và phạm vi nghiên cứu................................................................ 12 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 13 6. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................... 13 7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................... 14 8. Cấu trúc khóa luận.................................................................................... 14 NỘI DUNG ................................................................................................. 15 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ........................................................................................... 15 Nghệ thuật trần thuật ............................................................................. 15 Khái niệm trần thuật .......................................................................... 15 Vai trò của trần thuật đối với việc xây dựng truyện ngắn.................... 16 Các nhân tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật......................................... 18 Người trần thuật ................................................................................. 18 Điểm nhìn trần thuật ........................................................................... 21 Ngôn ngữ trần thuật............................................................................ 24 Giọng điệu trần thuật.......................................................................... 26 Vài nét về nghệ thuật trần thuật trong văn học Việt Nam sau 1975........ 29 CHƯƠNG 2 SỰ KHAI THÁC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI GIAI ĐOẠN SAU 1975 ................... 33 Điểm nhìn gắn với ngôi kể, vai kể ......................................................... 35 Điểm nhìn nhân vật ............................................................................... 46 Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 5 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Sự dịch chuyển điểm nhìn ..................................................................... 51 Sự dịch chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác............ 52 Sự dịch chuyển điểm nhìn từ bên ngoài vào bên trong........................ 55 CHƯƠNG 3 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI GIAI ĐOẠN SAU 1975 ................... 59 Ngôn ngữ trần thuật............................................................................... 59 Ngôn ngữ người kể chuyện................................................................. 60 Ngôn ngữ sắc sảo, tinh tế................................................................. 60 Ngôn ngữ giàu tính triết luận ........................................................... 64 Ngôn ngữ nhân vật ............................................................................. 69 Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật ..................................................... 69 Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật..................................................... 73 Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 76 Giọng triết lý, chiêm nghiệm .............................................................. 77 Giọng đối thoại và tranh biện.............................................................. 83 Giọng xót xa, tâm tình, chia sẻ ........................................................... 88 Giọng dân dã, hài hước, hóm hỉnh ...................................................... 94 KẾT LUẬN............................................................................................... 100 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 103 Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 6 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Pospelov khẳng định “đóng vai trò quan trọng trong loại tác phẩm tự sự là trần thuật”. Trần thuật là phương thức biểu đạt thông dụng mà văn học lựa chọn để hiểu biết, khám phá và phản ánh đời sống. Nó giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong nghệ thuật kể truyện của mỗi nhà văn. Trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo, những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn học. Là hình thức hư cấu tự sự bằng văn xuôi, “truyện ngắn thường miêu tả một lát cắt của đời sống, một giai đoạn, thậm chí một khoảng khắc, một phút lóe sáng đầy ý nghĩa khám phá trong cuộc đời nhân vật” [dẫn theo Nguyễn Đăng Mạnh – Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp - chân dung, Do đó khi đi vào tìm hiểu truyện ngắn trên phương diện nghệ thuật trần thuật, người đọc sẽ khám phá ra yếu tố tạo nên cái hồn cốt của tác phẩm. Đồng thời, người đọc cũng nhận thấy vai trò, tác dụng của nghệ thuật trần thuật trong việc tạo ra giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm văn học. Tìm hiểu những biểu hiện của nghệ thuật trần thuật là cơ sở để chúng ta tiếp cận phong cách độc đáo trong nghệ thuật kể chuyện của một nhà văn. Thứ nữa, nếu hiểu văn học là loại hình nghệ thuật thời gian thì các sự kiện, chi tiết trong tác phẩm có thể triển khai theo trật tự tuyến tính hay phi tuyến tính. Nhà văn chính là người có thể quay ngược hoặc vượt thời gian nghệ thuật do mình sáng tạo ra. Thông qua “nghệ thuật trần thuật” nhà văn thể hiện được tài năng, phong cách sáng tác, sở trường, bút lực của mình trong sáng tác văn học. Việc tìm hiểu một vấn đề lý luận văn học ở truyện ngắn Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 7 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Nguyễn Khải sau năm 1975 sẽ cho thấy hiệu quả nghệ thuật trần thuật một cách sâu sắc hơn. Nguyễn Khải là một trong những nhà văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Ông thuộc số ít nhà văn sớm xác định cho mình một quan điểm độc đáo về nghệ thuật, về vai trò của văn học và trách nhiệm của nhà văn. Ông cũng thuộc số ít những nhà văn có sức viết dẻo dai, bền bỉ và luôn luôn có mặt ở những nơi “mũi nhọn” của cuộc sống. Với quan niệm, “coi nghệ thuật như một khoa học” ngòi bút Nguyễn Khải không coi việc tái hiện bức tranh hiện thực làm mục đích mà muốn tìm vào những tầng sâu của hiện thực, mổ xẻ các quan hệ bao giờ cũng rất phức tạp trên bề mặt và trong bề sâu của cuộc sống để nắm bắt những vấn đề bản chất nhất. Nhà văn thường bám sát những nhiệm vụ cơ bản của mỗi giai đoạn cách mạng, đồng thời lại đi sâu nghiên cứu khám phá những bí ẩn của cuộc sống và những khía cạnh phức tạp của cuộc sống tâm lý con người. Do đo, tìm hiểu Nguyễn Khải ở góc độ thi pháp về vấn đề nghệ thuật trần thuật, chúng ta sẽ đi vào khám phá thế giới nghệ thuật với những dụng công về điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ… trong sáng tác của ông. Truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 luôn được giới nghiên cứu phê bình quan tâm bàn luận và đông đảo bạn đọc hào hứng đón nhận. Bởi, truyện ngắn của ông giai đoạn này là thế giới phong phú những cảnh ngộ cá biệt, những hành trình sống đầy nhọc nhằn do bao hệ lụy thường tình, những cuộc vật lộn kiên cường của con người với hoàn cảnh để bảo vệ một niềm tin cá nhân, những cá nhân với bảng giá trị tự nó xác lập cho nó. Mỗi truyện như một phát hiện cảm động về con người và tất cả đều nhằm trả lời cho câu hỏi khắc khoải suốt cuộc đời cầm bút của ông con người là ai? Ở truyện ngắn, Nguyễn Khải cũng đặt con người vào các mới quan hệ đời thường để quan sát tư cách làm người của nó và nhận ra chính cái đa đoan, đa Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 8 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 sự trong bản chất tinh thần của con người làm nên vẻ đẹp cuộc sống. Truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 thường viết về người già, những người thất bại, lạc thời, đơn độc như người mẹ trong Mẹ và các con, chị Vách trong Đời khổ … Truyện ngắn giai đoạn này của ông chú ý đến “phía khuất mặt người”, đến những gì thực sự làm nên bản lĩnh, giá trị cá nhân. Đó chính là sự chuyển hướng quan trọng trong văn xuôi Nguyễn Khải. Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 theo hướng tiếp cận thi pháp học ở góc độ “nghệ thuật trần thuật” sẽ nhận thấy đuợc sự sáng tạo, cá tính và phong cách của nhà văn. Đồng thời, thấy được những đóng góp của nhà văn làm nên diện mạo văn học Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề Số lượng tác phẩm và chất lượng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải trong suốt những năm cầm bút đã xếp ông vào vị trí xứng đáng của nền văn học mới. Sự mẫn cảm với cái hàng ngày, với những gì đang diễn ra, với những “vấn đề hôm nay” đã khiến nhũng trang viết sắc sảo, đầy “chất văn xuôi” của Nguyễn Khải không những luôn luôn có độc giả mà còn khơi gợi hứng thú tranh luận, trở thành nơi “giao tiếp đối thoại” của đông đảo bạn đọc. Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, đánh giá về những khía cạnh trong “nghệ thuật trần thuật” của văn xuôi Nguyễn Khải. Và hầu hết các tác giả đã đánh giá cao vai trò, hiệu quả nghệ thuật của những vấn đề thuộc nghệ thuật trần thuật trong văn xuôi Nguyễn Khải. Trong cuốn Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo Dục, 2007 do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và giới thiệu là tài liệu quý báu để chúng tôi nghiên cứu đề tài sâu sắc và hoàn thiện hơn. Cuốn sách tập hợp được rất nhiều bài viết đánh giá về tác phẩm cũng như nghệ thuật viết truyện của ông. Ở đây, chúng tôi chỉ đưa ra một số bài tiêu biểu. Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 9 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Tác giả Đoàn Trọng Huy với “Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải” đã nhấn mạnh “Từ lâu, Nguyễn Khải được chú ý vì cái độc đáo của cá tính sáng tạo” [26, Cũng ở bài viết này, tác giả Đoàn Trọng Huy cũng nhấn mạnh “ngôn ngữ của Nguyễn Khải giàu chất sống, chất văn xuôi và là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều giọng điệu” [26, Như vậy, yếu tố giọng điệu - một trong những yếu tố đặc trưng của nghệ thuật trần thuật đã được nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy đề cập đến. Nhưng ở bài viết, tác giả Đoàn Trọng Huy mới chỉ dừng lại ở việc nêu lên những đặc điểm của ngôn ngữ, của giọng điệu đa thanh trong văn xuôi Nguyễn Khải chứ chưa đi sâu vào phân tích những đặc điểm đó. Trong khi đó, tác giả Bích Thu cũng cho rằng “Trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Khải luôn luôn di chuyển các điểm nhìn trần thuật. Tác giả tự tách ra khỏi nhân vật để nhân vật tự bộc lộ bằng giọng điệu của chính mình” và “Người trần thuật trong tác phẩm của Nguyễn Khải không bao giờ biết trước sự việc mà mình miêu tả bởi sự phức hợp giọng điệu mang nhiều tiếng nói giọng tác giả, giọng nhân vật, giọng người kể chuyện với nhiều sắc thái, âm điệu khác nhau, hòa trộn, đan xen,tranh cãi và đối lập,tạo dựng một lối viết đa thanh và hiện đại” Qua bài Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải từ những năm tám mươi đến nay, Tạp chí Văn học,số 10, 1997 [ 26, Cũng trong bài viết này, tác giả đã phân chia một số giọng điệu chính trong văn Nguyễn Khải đó là giọng triết lý, tranh biện; giọng thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình, chia sẻ; giọng hài hước hóm hỉnh… Kết thúc bài viết, tác giả khẳng định “Sáng tác của Nguyễn Khải từ những năm 80 đến nay không chệch khỏi quy luật tiếp nối và đứt đoạn của quá trình văn học. Một giọng điệu trần thuật chịu sức hút của chủ nghĩa tâm lý, kết hợp tả, kể, phân tích một cách linh hoạt, thông minh và sắc sảo. Lời Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 10 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 văn nghệ thuật Nguyễn Khải là lời nhiều giọng, được cá thể hóa mang tính đối thoại của tự sự hiện đại” [26, Cũng đề cập đến nghệ thuật trần thuật, Nguyễn Thị Bình trong bài viết Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra hình tượng người kể chuyện đặc biệt trong sáng tác của Nguyễn Khải “Có một người kể chuyện đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là “chú Khải”, “ông Khải”… cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương … nhân vật này góp phần tạo ra giọng điệu tự nhiên, chân thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn Nguyễn Khải” [26, Ngoài những bài viết được tập hợp trong cuốn Nguyễn Khải tác gia và tác phẩm, còn một số bài viết của các tác giả khác cũng chú trọng đến các khía cạnh khác của nghệ thuật trần thuật. Trong Phong cách văn xuôi Nguyễn khải tác giả Tuyết Nga đã dành một phần của chương ba để nói về giọng điệu và ngôn ngữ trong văn xuôi Nguyễn Khải. Ở đây, tác giả đã đi vào tìm hiểu giọng điệu trong văn Nguyễn Khải với tư cách là thành phần cơ bản liên kết các yếu tố hình thức để tạo thành một chỉnh thể, góp phần làm nên phong cách nhà văn. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đi vào phân chia các kiểu giọng của văn xuôi Nguyễn khải chứ chưa thực sự đi sâu vào khai thác vấn đề giọng điệu trong văn ông. Và trong giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại tập II do Nguyễn Văn Long chủ biên, các tác giả đã đề cập đến “tính chính luận và triết luận trong nghệ thuật trần thuật” của Nguyễn Khải. Ở bài viết này,các tác giả đã khẳng định “lời văn nghệ thuật của Nguyễn Khải rất giàu tính trí tuệ, nhiều ngụ ý”. Giai đoạn sáng tác trước 1975 chủ yếu là lời một giọng, nhưng từ Gặp gỡ cuối năm trở đi, nhìn chung là kiểu lời nhiều giọng và có giọng điệu trần thuật biến hóa khá linh hoạt. Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 11 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Tuy nhiên, trong giới hạn những bài viết riêng lẻ, các tác giả mới chỉ đề cập đến một vài khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khải. Các tác giả chưa lí giải một cách có hệ thống về tổ chức trần thuật của ông. Do vậy, trên cơ sở lí luận, công trình của chúng tôi đã đi vào tìm hiểu cụ thể nghệ thuật trần thuật qua một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Khải sau 1975. Do thời gian và giới hạn của bài viết nên khóa luận của chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề thuộc nghệ thuật trần thuật như người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật. 3. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu về vấn đề lý luận “nghệ thuật trần thuật” trong tác phẩm tự sự và vai trò của nó trong truyện ngắn góp phần vào việc đi sâu, tìm hiểu “nghệ thuật trần thuật” trong những sáng tác của một tác giả trong một giai đoạn cụ thể để tìm ra những giá trị về nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời, khám phá được những nét chung của tác giả trong sự vận động của thời đại và những nét riêng tạo nên phong cách nhà văn. Thông qua việc tìm hiểu “nghệ thuật trần thuật” trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 chúng tôi muốn đi sâu khám phá và thêm một lần nữa khẳng định vai trò, vị trí của ông trong nền văn học đương đại nói riêng và trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, đi sâu vào tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 nhằm tìm hiểu về phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo và những đổi mới của nhà văn trong sự vận động của tiến trình văn học dân tộc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tập trung tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu khảo sát những truyện ngắn sáng tác sau 1975 của Nguyễn Khải. Ở đề tài này, tác giả tập trung khảo sát Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 12 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 truyện ngắn Nguyễn Khải trong cuốn “Truyện ngắn Nguyễn Khải chọn lọc” 1996, Nhà xuất bản hội nhà văn và cuốn “Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải” 2002, Nhà xuất bản hội nhà văn. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận đi vào tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975 trên các phương diện người kể chuyện, điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu,…để làm rõ hiệu quả nghệ thuật trong sáng tác của ông. Để từ đó thấy được giá trị độc đáo trong truyện ngắn Nguyễn Khải, vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 6. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp hệ thống. Khi nghiên cứu khoa học người nghiên cứu phải biết chia tách đối tượng ra thành nhiều yếu tố có cùng một trình độ, mỗi yếu tố ấy có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau để tìm hiểu, khám phá. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chọn phương pháp này để khảo sát “nghệ thuật trần thuật” theo các yếu tố nhỏ của hình thức người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật. Phương pháp so sánh hệ thống Phương pháp này nhằm giúp người nghiên cứu tìm ra sự đặc trưng cũng như sự độc đáo giữa hai hệ thống được đối chiếu. Qua đó, làm rõ sự tương quan cũng như những nét đối lập của từng yếu tố cùng loại giữa hai hệ thống. Phương pháp này được áp dụng cho từng cấp độ của tác phẩm, cho toàn tác phẩm cũng như cho từng nhóm tác phẩm. Phương pháp thống kê phân loại. Phương pháp này giúp người nghiên cứu tác phẩm văn học trong chỉnh thể của nó. Mỗi tác giả có một phong cách nghệ thuật riêng và nét phong cách đó là sự ổn định trong sáng tác của nhà văn trong một thời gian dài. Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 13 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp đưa các đối tượng vào trong một chỉnh thể để tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó rút ra đươc giá trị của tác phẩm và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn học. 7. Đóng góp của khóa luận Thực hiện đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975” chúng tôi hi vọng đóng góp một cái nhìn cá nhân về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải. Qua đó chúng ta sẽ có cách đánh giá toàn vẹn hơn về sự nghiệp văn học cũng như tài năng, tư tưởng nghệ thuật của ông. 8. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương Chương 1 Những vấn đề lý luận về nghệ thuật trần thuật Chương 2 Sự khai thác điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975. Chương 3 Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải giai đoạn sau 1975. Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 14 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT Nghệ thuật trần thuật Khái niệm “trần thuật” Trần thuật narration là phương thức nghệ thuật đặc trưng của loại tác phẩm tự sự. “Truyện ngắn là loại tác phẩm tự sự cỡ nhỏ” Dẫn theo giáo trình Lý luận văn học. Do đó, nghệ thuật trần thuật giữ vai trò chủ đạo, nó quyết định tới sự thành công của tác phẩm. Ngay từ đầu thế kỉ XX thì trần thuật đã trở thành một trong những vấn đề lý thuyết tự sự học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng quan tâm rất nhiều đến nghệ thuật trần thuật và đã đưa ra rất nhiều định nghĩa về trần thuật. Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp chúng tôi chỉ xin trích dẫn một số định nghĩa được coi là tiêu biểu và được nhiều người quan tâm hơn cả. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các nhà nghiên cứu đã định nghĩa về trần thuật “Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật theo một thứ tự nhất định, một cách nhìn nào đó” [6, Cũng bàn về khái niệm trần thuật, tác giả Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học” cho rằng “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của hành động, tả ngoại hình, tả nội thất… bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân vật. Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo các tác phẩm tự sự hoặc của người kể, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời nói trực tiếp của các nhân vật” [1, Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 15 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Trong bài “Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” tác giả Lại Nguyên Ân lại khẳng định “Thực chất hoạt động trần thuật là thuật, là kể. Cái được thuật, được kể trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [24, Giáo trình lí luận văn học do GS. Phương lựu chủ biên đã đưa ra cách hiểu về khái niệm trần thuật tương đối thống nhất với cách hiểu trên “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật theo một trình tự nhất định” [13, Qua các định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy thực chất của hoạt động trần thuật là kể, thuật lại những sự kiện, con người, hoàn cảnh nào đó theo một cách nhìn nào đó. Cũng qua đó nhận thấy khái niệm trần thuật và khái niệm kể chuyện có thể thay thế cho nhau và chúng đươc diễn đạt bằng các từ ngữ mang tính cụ thể hơn nữa như người kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể… Các quan điểm trên đều khẳng định trần thuật là một khái niệm luôn gắn liền với bố cục và kết cấu của tác phẩm. Người trần thuật đóng vai trò như người “dẫn chương trình” giúp độc giả xem xét, tìm hiểu tác phẩm ở cả bề mặt cũng như bề sâu. Mặt khác, trần thuật còn là bằng chứng của trình độ vượt thoát của người nghệ sĩ. Ở đó, người nghệ sĩ khẳng định tài năng và cá tính sáng tạo của mình. Vai trò của trần thuật đối với việc xây dựng truyện ngắn Truyện ngắn là thể loại văn học đặc biệt. Là hình thức tự sự cỡ nhỏ, nhưng truyện ngắn luôn có “sức chứa” và “sức mở lớn”, “sự sáng tạo của truyện ngắn là không cùng” Vương Trí Nhàn. Vai trò của truyện ngắn trong đời sống văn học hiện đại là khả năng khám phá đời sống, bộc lộ tư tưởng, tình cảm và tài năng của nhà văn. Trong sự đóng góp lớn của truyện ngắn đối với đời sống văn học thì trần thuật giữ vai trò quan trọng tạo nên thế Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 16 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 giới nghệ thuật của tác phẩm, tạo nên phong cách, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Chính vì vậy mà Pospelo khẳng định “Đóng vai trò quan trọng trong loại tác phẩm tự sự là trần thuật” và với sự trợ giúp của trần thuật, miêu tả, bình luận tác giả, lời nói nhân vật trong tác phẩm tự sự cuộc sống được nắm bắt một cách tự do và sâu rộng. Qua đó, ông đề cập đến vai trò của trần thuật đối với loại tác phẩm tự sự - một lọai văn có khả năng phản ánh sâu sắc, phong phú và đa dạng hơn cả. Trong đó, trần thuật là yếu tố quan trọng không thể thiếu. Mà Vương Trí Nhàn đã khẳng định “Khả năng ôm trọn cuộc sống tiểu thuyết và truyện ngắn bình đẳng với nhau”. Có thể thấy vai trò của trần thuật trong tác phẩm tự sự được biểu hiện cụ thể Trần thuật là yếu tố tạo nên diện mạo của một tác phẩm tự sự ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. Theo tác giả Trần Đăng Suyền thì “Trần thuật là một phương thức cơ bản của tự sự, một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức một tác phẩm văn học. Cái hay, sức hấp dẫn của một truyện ngắn hay tiểu thuyết phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật kể chuyện của nhà văn” [22, Vai trò đậm nhạt của trần thuật còn phụ thuộc vào đặc điểm của thể loại, những khuynh hướng phát triển của thể loại ấy. Trong địa hạt tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng nghệ thuật trần thuật đóng vai trò rất quan trọng. Nó không chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà còn là bản thân của câu chuyện. Khi mà cốt truyện không còn đóng vai trò nòng cốt, nhân vật bị xóa mờ đường viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khóa mở ra những cánh cửa của truyện. Hơn nữa, qua thực tiễn công việc sáng tạo nghệ thuật cho thấy, nghệ thuật trần thuật là một trong những tiêu chuẩn để hình thành diện mạo của truyện ngắn trong đời sống văn học hiện đại. Để khẳng định vai trò, vị trí của truyện ngắn Kuranop khẳng định “một nền văn học chưa được coi là hình Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 17 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 thành, nếu trong đó truyện ngắn không chứa một vị trí xứng đáng” [18, Các nhân tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật Người trần thuật “Người trần thuật” hay “Người kể chuyện” là vấn đề quan trọng, then chốt của tác phẩm tự sự. Vì không có tác phẩm tự sự nào là không có người kể chuyện, mà “Truyện ngắn là loại hình tự sự cỡ nhỏ” Giáo trình lý luận văn học - một loại hình tiêu biểu cho văn xuôi hiện đại. Do đó, để phục vụ việc tạo ra nhân vật kể chuyện trong sáng tác các tác giả đã sử dụng những hình thức kể chuyện khác nhau. Có khi đó là người đứng hoàn toàn bên ngoài tác phẩm nhưng cũng có khi đó là nhân vật xưng tôi. Nhà nghiên cứu khẳng định “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc tạo ra thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật mà thiếu người kể chuyện” [25, Quan điểm này góp phần khẳng định vai trò của hình thức kể chuyện trong nghệ thuật trần thuật. Còn đã đưa ra quan điểm của mình trên cơ sở của lý thuyết giao tiếp, lý thuyết “giọng” và “lời người khác”, ông đưa ra vấn đề người kể chuyện được đặt trong quan hệ với người đọc giả định, với vấn đề “điểm nhìn”, các loại hình, cấp độ và tình huống trần thuật. Vấn đề người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn xuôi hiện đại, cũng là vấn đề xuất hiện ngay từ đầu thế kỉ XX ở Nga và được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sau đó, vấn đề người kể chuyện nhận được sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới trong đó có các nhà nghiên cứu ở Việt Nam. Ở Việt Nam khái niệm “Người kể chuyện” là một khái niệm thu hút đươc nhiều ý kiến quan tâm. Do phạm vi đề tài, ở đây chúng tôi chỉ tập hợp một số ý kiến tiêu biểu cho đánh giá, nhận xét về “nghệ thuật kể chuyện” . Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 18 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Người kể chuyện” chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể với một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả, có thể là một nhân vật do tác giả tạo ra. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Hình tượng người kể đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã hội cho cái nhìn tác giả làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống xã hội trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều bối cảnh. Đồng thời, với việc lựa chọn người trần thuật, tác giả đã gửi gắm một dụng ý nghệ thuật nhất định nhằm dẫn dắt một cách thuyết phục nhất để người đọc tin vào câu chuyện mà mình kể. Tác giả Nguyễn Thái Hòa cho rằng “Cần có sự phân biệt giữa người kể hàm ẩn với tác giả và con người tác giả ngoài đời” [8, Ở đây, tác giả quan niệm “người kể chuyện hàm ẩn” là người kể chuyện toàn năng, là người biết tuốt. Do đó, “người kể chuyện hàm ẩn” một mặt sống với nhân vật, mặt khác lại có mối quan hệ ngầm ẩn với người đọc ngoài đời. Thực ra, “người kể chuyện hàm ẩn” là tên gọi khác của “người kể chuyện ẩn tàng” như Trần Đình Sử từng gọi tên. Từ quan niệm trên cho thấy “Người kể chuyện” là yếu tố không thể thiếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Bằng hình thức “Người kể chuyện” nhà văn kể lại những điều mình đã biết và tự do liên tưởng, tưởng tượng để cốt truyện hấp dẫn và được bạn đọc đón nhận. “Người kể chuyện” chính là hình tượng ước lệ về “Người trần thuật”. Người trần thuật là nhân vật có thật hoặc không có thật, nhà văn đã bằng hành vi ngôn ngữ để tạo nên văn bản tự sự. Trong trần thuật miệng và trần thuật viết phi văn học, người trần thuật đứng ngoài mọi văn bản mà nó trần thuật, là người tiến hành trần thuật. Người trần thuật có thể hóa thân thành nhiều vai khác nhau. Vai trần thuật lộ diện thường xưng “tôi” kể theo ngôi thứ nhất, vai kể chuyện ẩn tàng là người kể Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 19 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 chuyện giấu mặt sau trang sách, kể theo ngôi thứ ba. Như vậy, nhắc tới khái niệm “người kể chuyện” ta không thể không quan tâm đến “ngôi kể”. Vấn đề này cũng được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu, khai thác. Tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy trong bài Về khái niệm truyện kể ở ngôi thứ ba và người kể chuyện ở ngôi thứ ba nhận xét “luôn luôn chỉ có ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai tham dự vào tình huống giao tiếp và ngôi thứ ba chỉ có thể là chủ thể của hành vi được kể lại là chủ ngữ trong câu chứ không thể là chủ thể của lời nói” Điều này có nghĩa “người kể chuyện ở ngôi thứ ba hay người kể là nhân vật [24, Người kể chuyện chính là hình thức kể chuyện – là cách mà tác giả lựa chọn ngôi kể, vai kể, để kể, thuật, tả…lại câu chuyện của mình. Do đó “Người kể chuyện” là một trong những hình thức thể hiện quan điểm tác giả trong tác phẩm. Song quan điểm tác giả chỉ có thể được thể hiện qua “điểm nhìn”, “tầm nhận thức” của người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều tồn tại độc lập và “thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện được kể lại có phần nào trùng với quan điểm của tác giả, nhưng không bao giờ trùng khít hoàn toàn” Dẫn theo Đỗ Hải Phong, vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện đại [24, Các tác giả cuốn Giáo trình lí luận văn học tập 1 đã nêu ra chức năng thông báo của các ngôi kể “Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả những gì họ biết, còn ngôi thứ nhất chỉ được kể những gì mà khả năng của một con người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo ra cảm giác chân thực” [14, Nhìn chung, hình thức kể ở ngôi thứ nhất xuất hiện muộn ở đầu thế kỉ XIX và tồn tại cho tới ngày nay, ở giai đoạn trước hình thức người kể ở ngôi thứ ba chiếm vị trí độc tôn, còn hình thức người kể ở ngôi thứ hai thường ít gặp hơn trong lịch sử văn học. Nhưng dù với bất kì hình thức trần thuật nào, người kể chuyện cũng chính là hình tượng do chính tác giả sáng tạo Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 20 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 ra. Tuy nhiên, “người kể chuyện chỉ được kể khi nào họ cảm thấy như người trong cuộc đang chứng kiến sự việc xảy ra bằng tất cả các giác quan của mình”. “Người kể chuyện” là yếu tố đầu tiên để tìm hiểu nghệ thuật trần thuật bởi nói như “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” Điểm nhìn trần thuật Cụm từ “the point of view”, “the out look” được dùng khá rộng rãi trong đời sống có nghĩa là điểm nhìn hay chỗ đứng để xem xét, bình giá một sự vật, một sự kiện, một hiện tượng tự nhiên hay xã hội. Có khi khái niệm này được mở rộng tương đương với nghĩa “quan điểm” về thế giới quan được dùng nhiều trong các lĩnh vực triết học, chính trị và nghệ thuật. Trong văn học “điểm nhìn trần thuật” được hiểu là vị trí người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. Như vậy, đi liền với “người kể chuyện” là điểm nhìn của người kể, không thể hiểu thấu đáo sự vật, hiện tượng nếu không có điểm nhìn đa diện. Khi đọc tác phẩm, người đọc phải tìm ra điểm nhìn mà từ đó tác giả miêu tả, phân tích, trần thuật. Tuy nhiên ở những tác phẩm nổi tiếng nhà văn không chỉ lựa chọn điểm nhìn hợp lí mà còn phối kết hợp các điểm nhìn tạo ra sự năng động cho lối kể của nhà văn. Mặt khác, thông qua “điểm nhìn trần thuật” người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách nhà văn. Vấn đề điểm nhìn được nghiên cứu tập trung từ đầu thế kỉ XIX, sang đến thế kỉ XX đặc biệt là từ những năm 40 trở đi vấn đề điểm nhìn trở thành một tiêu điểm trong nghiên cứu văn học. “Điểm nhìn trần thuật” là vị trí để từ đó người kể chuyện nhìn và miêu tả các sự kiện, hiện tượng, hành vi của đời sống. Điểm nhìn là khởi điểm mà việc trần thuật trải ra trong không gian và thời gian của văn bản. “Điểm nhìn trần thuật” cung cấp một phương diện để Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 21 Khóa luận tốt nghiệp Trường ĐHSP Hà Nội 2 người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm phong cách của nhà văn ở trong đó. Chính điều đó đã góp phần khẳng định “giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với đời sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự thay đổi điểm nhìn” [6, Từ những quan điểm chung nhất về lý thuyết “điểm nhìn trần thuật” chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu vấn đề điểm nhìn trần thuật trong quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Nhà nghiên cứu M. Khrapchencô cho rằng “Chân lí cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ”; một nhà văn pháp cũng nói “đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ phong các không phải là vấn đề kĩ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Từ hai quan điểm trên của hai nhà nghiên cứu chúng tôi nhận thấy vấn đề “điểm nhìn” có ảnh hưởng rất lớn tới việc thẩm định cá tính sáng tạo và phong cách của nhà văn. Bởi vì Sự lựa chọn điểm nhìn của nhà văn trong tác phẩm của mình không chỉ dừng lại ở việc để cho người kể chuyện nhìn và kể, miêu tả các sự kiện, hiện tượng, hành vi của đời sống, mà chính bản thân việc lựa chọn điểm nhìn cho người trần thuật cũng thể hiện sự đánh giá tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Bên cạnh đó, Đình Sử cũng cho rằng “Văn bản nghệ thuật phải truyền đạt những cái người ta cảm thấy, nhìn thấy và nghĩ đến, do đó tất yếu phải thể hiện điểm nhìn, chỗ đứng để từ đó thấy thế giới nghệ thuật”. Theo đó khái niệm “điểm nhìn trần thuật” được xác lập điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Quan điểm về điểm nhìn nghệ thuật của Cao Kim Lan là “Hiểu một các đơn giản nhất điểm nhìn chính là một “mánh khóe” thuộc về kĩ thuật, một phương tiện để chúng ta có thể tiến đến cái đích tham vọng nhất sức quyến rũ của truyện kể. Và dù có sử dụng cách thức nào, phương pháp hay kĩ thuật nào Đỗ Thị Dương – K33B Ngữ Văn 22 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vở\ Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y e n x h ì xkw cmHoàng L ê nhât thông chí và Tam quốc diễn nghĩa được biểu hiện trên nhữngnét lớn sau Góc nhìn tự sựTrong Tam quốc diễn nghĩaCác nhà nghiên cứu văn học vùng Viễn đông có nhận xét "nữ hoàngcủa các khoa học không phải là thần học mà là lịch sử" 50, tr 367. Lịch sửđã cung cấp cho văn học Trung đại một mẫu tự sự nhất định. Đó là nguyêntắc miêu tả sự kiện theo dòng chảy của thời gian với thái độ khách quan củangười kể Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung là người giớithiệu câu chuyện còn khi câu chuyện bắt đầu tác giả biến mất để cho sự vậttự nói lên theo trình tự khách quan của nó. Sau mỗi đoạn kể, tác giả lại xuấthiện để bàn phiếm về triết lí hoặc là để tóm tắt câu chuyện dẫn sang câuchuyện khác. Sự đánh giá của tác giả được thể hiện một cách khách quanthông qua những lời bình phẩm, những bài thơ của người đời sau hoặcđương thời được tác giả đưa vào tác phẩm và thông thường những lời bìnhluận ấy bao giờ cũng nhất quán với chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của tácgiả. Tào Tháo là một nhân vật anh hùng trong Tam quốc chí của Trần Thọnhưng trong con mắt "phản Tào" của nhà văn La Quán Trung, Tào Tháo làmột gian hùng. Tác giả sưu tầm bao nhiêu bài thơ để ca ngợi lòng nhân từcủa Lưu Bị thì lại cũng có nhiều bấy nhiêu bài thơ phê phán sự tàn ác, gianhùng của Tào Tháo. Theo nhà nghiên cứu vãn học Triệu Nghị Hành, trongtiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chỉ có lời trực tiếp của nhân vật, lời nửa trựctiếp phải đến đầu thế kỉ X X mới có dẫn theo Nguyễn Đình sử 50, tr lỏ l.Ngoài việc bình luận sự kiện bằng cách đưa vào những lời bình luận củangười đương thời và người đời sau, thái độ của tác giả còn được bộc lộ giántiếp qua những lời khuyên của những người am hiêu thời cuộc. Những lờikhuyên ấy luôn được dựa trên những quan điểm đạo đức, chính trị củaKhổng giáo và thái độ trân trọng hướng về những thời kì lịch sử huy hoàng,những anh hùng của quá Ảnh hưởng của Tamơ ịu ố cdiễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chíA lc Ịu y e n T K ị X K u á nTrong H oàng Lê nhất thống chíGóc nhìn tự sự của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí chịu ảnh hưởng củaTam quốc diên nghĩa bởi khuôn mẫu của hình thức kể chuyện. Tác giả luôn đứngở vị trí thứ ba để nhận định và đánh giá sự kiện và hành động của nhân vật. Tuyvậy, Hoàng Lê nhất thống chí còn là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc củathể kí sự lịch sử, một thể loại đã được sử dụng trong nhiều tác phẩm vãn xuôi chữHán Việt Nam. Đặc trưng của thể loại này là tính thời sự và thái độ của tác giảđối với sự kiện phản ánh. Những lời bình luận ở hồi một của Hoàng Lê nhấtthống chí thể hiện trực tiếp thái độ của tác giả với tư cách người kể chuyện. Tháiđộ của tác giả còn được thể hiện ở những mạch ngầm bên trong sự kiện, ở lời văntrần thuật giàu cảm xúc, sảng khoái đậm đà chất sử thi. Trong Hoàng Lé nhấtthống chí những cảnh bi hài như cảnh binh lính tôn phò Trịnh Tông trên một cáimâm tung lên, hạ xuống như con rối được thể hiện bằng một giọng văn châmbiếm cũng phần nào thể hiện thái độ của tác giả. Nguyễn Huệ uy vũ, giản dị, raBắc vào Nam xuất quỉ nhập thần, các sự kiện liên quan đến Nguyễn Huệ đậm đàmàu sắc sử thi chi phối cảm hứng toàn truyện. Thái độ miêu tả của tác giả vẫn giữđược tính khách quan nhưng ngụ ý khen chê lại thể hiện rất rõ. Mặt khác trongHoàng Lê nhất thống chí còn có một đoạn mô tả sự kiện bằng lời thoại của nhânvật nhân vật ở vị trí người kể chuyện mà ở Tam quốc diễn nghĩa không có. Đólà đoạn đối thoại trực tiếp giữa Hữu Chỉnh và người em rể ở hồi 4. Qua câuchuyện của hai người, những sự kiện trong nội cung cua Chúa Trịnh xảy ra từ haihồi trước được xâu chuỗi lại chuyện kết cục bi thảm của mẹ con Thị Huệ,chuyện trả thù một cách tàn nhẫn của Dương Thái Phi... Như vậy thời gian của sựkiện không những bị đảo lộn mà bản chất sự kiện cũng được nhìn nhận nhiềuchiều chứ không chỉ qua thái độ đánh giá của tác giả. Đoạn hội thoại này còn cótác dụng phát triển cốt truyện, liên kết, xâu chuỗi những chi tiết, sự kiện trước vàsau nó góp phần làm nên tính thống nhất trong kêt câu tac phám. Đây la điêmcách tân thi pháp tiểu thuyêt chương hôi cua Hoơiìg Le ìĩhữt thong chì, the hiẹnnhững sáng tạo của các nhà văn Việt Nam trong quá trình tiếp thu ảnh hưởng vàphát triển những thành tựu của văn học dân Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lề nhất thống chí____________________________________________________________A lg u y ê n TTkị x k u ầ nTrong quá trình phát triên thê loại, tiểu thuyết phải trải qua một quátrình khăng định mình bên cạnh những các thể loại khác, các ngành nghệ thuậtkhác. Phương thức tự sự của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông chíphản ánh quá trình tự phân biệt với chính sử bất luận tác giả hay nhà nghiêncứu thời đó có ý thức được điều đó hay không. Nói theo cách nói của ngườixưa phận sự của sử là "truyền tín", quí ở "chân"; phận sự của tiểu thuyết là"truyền kì", quí ở "huyễn", ngòi bút của sử là "thực lục", ngòi bút của tiểuthuyết là "hư bút"; "sử" dừng lại ở chuyện đời thường còn tiểu thuyết lại có thểvươn tới những bến bờ xa lạ, những miền bí ẩn mà con người ít hoặc chưa biếtđên" 56. Để làm được điều đó, các tác giả ngoài việc sử dụng cách kểchuyện của sử kí còn tiếp thu những thành tựu của cách kể chuyện dân trần thuật thì được mở đầu bằng niên đại lịch sử nhưng cách dẫn chuyệnlại dùng những từ, cụm từ chuyển tiếp như "lại nói về", "tạm thời không nóivề... mà nói về", "nay lại nói về"... hoặc các hình thức ngắt đoạn như "hạ hồiphân giải" của chuyện kể dân gian. Như vậy là trong cùng một thời gian tácgiả có thể bao quát một khối lượng lớn sự kiện, không gian phản ánh của tácphẩm không những được mở rộng mà thời gian cũng trở nên mơ hồ thức kể chuyện dân gian còn ảnh hưởng đến việc khắc hoạ và xâydựng hình tượng nhân vật. Đó là việc các tác giả rất chú ý đến tính đột ngộtcủa hành động và sự xuất hiện của các nhân vật. Những từ như chợt, bỗng,nhìn kĩ té ra là ... được dùng nhiều lần để giới thiệu nhân vật; những hànhđộng gày chú ý đứng bật dậy, cười ha hả, những tiếng thét lớn... xuất hiệnkhá nhiều trong cả hai tác phẩm. Cách miêu tả này có tác dụng làm cho xúccảm trở nên căng thẳng và nhấn mạnh tính chất động của phương thức tự nhìn tự sự của tiểu thuyết chương hồi nói chung và Tam quốc diễnnghĩa, Hoàng L ê nhất thống chí nói riêng cho thấy mức độ sáng tạo của cácnhà văn chưa nhiều. Người trần thuật đứng từ một khoảng cách xa, đứng ơngoài nhân vật để xâu chuỗi sự việc. Điều này chứng tỏ tác phâm là một sựtiểu thuyết hoá lịch sử ở bình diện kết cấu sự kiện chứ chưa tiêu thuyêt hoa ơkhoảng cách trần Ảnh hưởng của Tam ơịUổc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí____________________________ ______________________________/slguỵeKv X k ị Xkuầ^ N ghệ thuật k ể Cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gianTrong Tam quốc diễn nghĩaNhững nguyên tăc diên tả lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam có nhiềuđiêm giông nhau. Đó là lối trinh bày theo trình tự thời gian xảy ra sự kiện, mặtkhác còn có lối sắp xếp những sự kiện vào một năm hay một triều đại của mộtvị vua nào đó. Trong cách miêu tả có sự kết hợp với thời gian tuyến tính và thờigian biên niên. Các sự kiện trong tác phẩm được gắn với các mốc lịch sử cụ thểđê đảm bảo sự phát triển tuần tự của cốt truyện. Ta có thể chỉ ra hàng loạt cácmốc lịch sử được dùng làm thời điểm diễn ra các sự kiện, nhưTháng giêng năm Kiến An thứ bảy Tào Tháo bàn việc cất quân đánhViên 11 năm Kiến An thứ tám Tôn Quyền cất quân đánh Hoàng Kiến An thứ mười bảy Tào Tháo cất quân đánh Đông khác, tác phẩm sử thi bao quát cả một khối lượng sự kiện to lớn vớinhiều tuyến sự kiện và nhân vật khác nhau nhưng không bị rơi vào tình trạngchồng chéo rắc rối là vì tác giả đã đưa vào cách gọi năm tháng song song, làmcho người đọc thấy khi thì biến cố này thuộc về năm cai trị của tập đoàn này,khi thì thuộc về năm cai trị của tập đoàn kia. Đó là việc tác giả dùng niên hiệunhà Hán để chỉ thời gian lịch sử của toàn bộ thời Tam quốc như các niên hiệuKiến Ninh, Quang Hoà, Kiến An..., nhưng có khi lại dùng niên hiệu của từngnước để chỉ sự kiện xảy ra ở các nước như Thái Hoà, Thanh Long, cảnh Sơcủa nhà Nguỵ; Kiến Hưng, cảnh Diệu của nhà Thục; Gia Hoà, Xích Ô,Nguyên Hưng... của nhà Ngô. Có khi để chỉ những sự kiện có liên quan đến banước tác giả sử dụng sự đối chiếu niên hiệu của các nước ấy để nói về một sựkiện như năm Diên Hi thứ 15 nhà Thục là năm Thái Hoà thứ nhất nhà Ngô,năm Kiến Hưng thứ 13 nhà Thục là năm Thanh Long thứ 3 bên Nguỵ và nămGia Hoà thứ 4 nhà Ngô... Qua việc thay thế những niên hiệu làm phương tiệnđể biểu hiện thời gian, La Quán Trung đã nói lên được sự phức tạp và bất ôn64 Ảnh hưởng của Tam ơịuốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí______________________________________________________ 7\]0uyê^\ T h i ~d\i\Áncủa một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Không gian phản ánh của tác phẩmđược mở rộng khi đang kể ở tuyến sự kiện này, tác giả dùng lại để miêu tảtuyến sự kiện khác bằng các từ chuyển tiếp lại nói, đây nói, hãy nói về... điềunày đảm bảo được sự mạch lạc của cốt truyện đồng thời có thê bao quát cảmột khối lượng sự kiện to lớn mà không làm mất tập trung của người quốc diễn nghĩa lấy cốt truyện là những hiện tượng xảy ra trong lịchsử, nhưng các tác giả với tư cách là người kể chuyện không phải bao giờ cũngbắt đầu từ một niên đại, thường thì tác giả miêu tả sự kiện rồi mới kết thúc bằngnăm tháng diễn ra sự kiện với một câu chuyển gần như có tính công thức "sựviệc diễn ra nhằm vào năm..." Mặt khác, sự nhấn mạnh tính tự sự trong tácphẩm cũng được thể hiện ở sự phân chia thời gian thành các đơn vị nhỏ hơn như"vào một ngày", "một đêm"... Khoảng thời gian này không câu nệ vào các niênhiệu, triều đại mà sử dụng thời gian một cách mơ hồ như năm ấy, đêm ấy, mộthôm, hai ba ngày sau... Điều đó làm cho cốt truyện trở nên mơ hồ hơn và có xuhướng thoát khỏi sự liệt kê lịch sử như những nhà viết sử vẫn H oàng Lẻ nhất thống chíBên cạnh cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gian, cách gọi nămtháng song song và sử dụng thời gian phiếm chỉ như Tam quốc diễn nghĩa,trong Hoàng Lê nhất thống chí có một số sự kiện được trình bày đảo lộn trậttự thời gian theo dụng ý của tác giả. Tác phẩm được mở đầu bằng một sựkiện rất riêng tư trong nội cung nhà Chúa. Thị Huệ được Chúa yêu quí dámném viên ngọc dạ quang vốn là đồ trang sức của Chúa rồi tự ý bỏ sang cungkhác. Sự kiện Thị Huệ có mang sinh ra được Trịnh Cán vào năm Đinh Dậuniên hiệu cảnh Hưng 38 1777, việc Trịnh Cán được Chúa yêu chiều và mưuđồ cướp ngôi thế tử của Thị Huệ. Nhưng sự kiện thái phi Dương Ngọc Hoancùng Khê Trung Hầu dối Chúa để có được Trịnh Tông xảy ra trước đó 14năm lai được trình bày sau Trịnh Tông sinh vào năm Quí MÙI, Canh Hưng24 1763. Sau đó các tác giả miêu tả sự kiện năm 1774, Quận Huy chia bèkéo cánh cùng Thị Huệ náo loạn trong phủ Chúa. Như vậy thơi gian cua sựkiện bị đảo lộn, không phu thuôc vào tiến trình phat trien cua thơi gian hch65 Ảnh hưởng của Tam ơ[Uốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y ễ n X k ị X k u ầ nsư mà phụ thuộc vào sự săp xêp của tác giả nhằm bộc lộ chủ đề của tácphâm. Mặt khác, sự đao lộn thời gian của sư kiện ớ ngay đầu tác phẩm còncó tác dụng gây chờ đợi, kích thích độc giả khám phá sự kiện. Đó là xuhướng thoát khỏi hình thức trình bày của lịch sử biên niên, khẳng định giá trịnghệ thuật của tác phẩm văn C ác biện pháp kìm hãm hành độngBiện pháp kìm hãm hành động là biện pháp nghệ thuật kể chuyện củanhững nghệ nhân dân gian. Đây cũng là một thủ pháp quan trọng để nhà vănTrung đại bố trí sự kiện tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm, khơi gợi sự tò mò, kíchthích trí tướng tượng của người đọc. Sau đây là một số biện pháp được dùng phổbiến trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàìì g Lê nhất thống "Sợi dây dấu kín"Trong Tam quốc diễn nghĩa, đoạn "Tam cố thảo ]ư" được các nhànghiên cứu đánh giá là một trong những đoạn có tính nghệ thuật cao. Sựxuất hiện của Khổng Minh được kìm hãm vừa đủ hợp lí để người đọc có thê’tưởng tượng về một con người tài giỏi đến mức tất cả những người tài giỏitrong thiên hạ đều phải ca ngợi. Trước khi tả cảnh lều tranh của KhổngMinh ở Ngoạ Long Cương thì tác giả đã tả cảnh trang viện của Thuỷ Kính ởNam Dương. Trước khi có Khổng Minh xuất hiện đã có Từ Thứ. Thuỷ Kínhtiến cử Ngoạ Long, Phượng Sồ, nhưng tiến cử như vậy cũng không có nghĩalà tiến cử. Tư Mã Huy không tiến cử Khổng Minh mà lại thành tiến Đức đến núi Ngoạ Long gặp nhầm Thôi Châu Bình, Gia Cát Quân,Hoàng Thừa Ngạn... mới gặp được Khổng Minh. Cách tả này được Mao TônCương ví như người đẹp "núp sau rèm châu, chỉ để lộ nửa mặt hoa, khiếnngười đọc ngơ ngẩn chẳng hiểu ra làm sao 2, lời bàn hôi 35. Biện pháplàm cho người đọc hồi hộp này được các nhà phê bình Trung Quốc truyềnthống gọi là "sợi dây dấu kín".Cách miêu tả này cũng được thể hiện trong Hoàng L ê nhất thống đông anh hùng của Nguyên Huê được thê hiện mọt cach tạp trung tronghồi thứ 14, người anh hùng áo vải thãng hoa trong cuộc truy quét 20 vạn quân66 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí____ ______________________________________________________________________ 7 \ Ỉ0 U y e nT k ị ~ rkw ầ nThanh vê nươc. Nhưng trước đó người đoc chỉ đươc biêt đến tài năng củaNguyên Huệ qua nhận xét, đánh giá của Hữu Chỉnh và một cung nhân trong câuchuyện với mẹ Lê Chiêu "Vận động theo làn sóng"Một biện pháp dùng để kìm hãm hành động thường thấy nữa trong Tamquốc diễn nghĩa là biện pháp miêu tả "vận động theo làn sóng". Vận động theolàn sóng đẩy xung đột và mâu thuẫn trớ nên gay gắt đến cực điểm nhưng lạithay thế cách tháo nút mà người ta chờ đợi bằng sự giảm dần. Chuyện VươngDoãn dùng Điêu Thuyền để chia rẽ Lã Bô và Đổng Trác là một chuyện tiêubiểu cho biện pháp kìm hãm hành động bằng cách tạo nên những đợt sóngmâu thuẫn lúc lên cao lúc giảm xuống rất căng thẳng. Vương Doãn khéo sắpđặt Điêu Thuyền giữa Đổng Trác và Lã Bố nhưng sự xuất hiện của Lí Nhotrong quan hệ căng thẳng giữa hai người như một sự giảm yếu. Lần thứ nhất LíNho khuyên Đổng Trác dùng vàng, gấm để tặng và mua chuộc Lã Bố khiếncho mâu thuẫn tưởng như được chùng xuống. Lần thứ hai, sau sự kiện ở PhụngNghi đình, Đổng Trác tức tối cầm kích đâm Lã Bố nhưng lại vấp phải Lí lần nữa Lí Nho lại khuyên Đổng Trác đem Điêu Thuyền cho Lã Bô' đểgiải toả mâu thuẫn giữa hai người. Xung đột một lần nữa lại tạm lắng xuốngđể chuyển sang một xung đột mới gay gắt và quyết liệt hơn dẫn đến kết cục LãBố đâm chết Đổng hồi chính biên của Hoàng Lé nhất thống chí vẫn luôn được cácnhà nghiên cứu đánh giá là thành công hơn so với mười hồi phần tục vậy, sáu hồi đầu của phần tục biên vẫn là những hồi hay, hấp dẫn ngườiđọc. Nguyên nhân của sự hấp dẫn ấy không chỉ vì tầm cỡ của sự kiện mà cònở chỗ các tác giả của Hoàng L ê nhất thống chí đã sử dụng các biện pháp kìmhãm hành động để sắp xếp chi tiết giống Tam quốc diên nghĩa. Nguyên Huệđược thể hiện trong Hoàng L ê nhất thông chí không chi là một thu linh có tàilãnh đạo một đội quân bách chiến bách thăng mà còn là một nguời có conmắt tinh đời trong việc nhận định và sử dụng hiên tài. Nguyên Huệ đánh giácao tài năng của Hữu Chỉnh nhưng cũng sớm nhận ra việc dùng Chinh giông67 Ảnh hưởng của Tam 0[ưốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_________________________________________ ___________ ______T k ị Xkucmnhư nhôt hô dưới gâm giường nên luôn có ý đề phòng và chờ cơ hội để tiêudiệt. Chuyện gièt Chính được tác giả dùng các biện pháp kìm hãm hành độngtheo kiêuvận động theo làn sóng" tạo nên những đợt sóng mâu thuẫn lúclên cao, lúc giảm yêu tạo nên sự thống nhất các tình tiết trong suốt ba hồi từhôi tám đên hôi mười. Đang lúc Chỉnh kiêu ngạo, hống hách trên đất Bắc Hàthì lại có chuyện tướng Tày Sơn là Võ Văn Nhậm đem quân ra Nghệ Andùng thư đê trách móc Chỉnh, chuyện Nhậm dùng lời nói khéo vỗ yên Chínhđể có thời gian sắp xếp công việc ở Nghệ An. Sự việc đang đến hồi căngthẳng thì lại có chuyện đi sứ của Trần Công Xán như một sự giảm yếu. Rồilại có chuyện Chỉnh không hiểu hết thâm ý của Võ Văn Nhậm và NguyễnHuệ nên không chú ý đề phòng phía Nam, ra sức tiêu diệt phe Trịnh khi Chỉnh càng ngày càng làm điều bạo ngược, tự cho rằng người đờichẳng còn ai bằng mình thì Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Phan Văn Lâncùng Võ Vãn Nhậm kéo quân ra Bắc đi đến đâu chiến thắng đến đấy vànhanh chóng tiêu diệt con người vẫn tự coi mình là "số một đất Bắc Hà". Sựkìm hãm hành động bằng cách tạo ra lớp lớp những mâu thuẫn đan cài lúclên cao, lúc giảm yếu luân phiên kế tiếp nhau để kết nối sự kiện, kích thíchsự tìm tòi khám phá của độc Hình thức ngắt hồiHành động trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí cònđược kìm hãm bằng hình thức ngắt hồi. Tác giả mô tả các tình tiết đến giaiđoạn cao trào thì ngắt hồi. Nguyên tắc cắt ngang câu chuyện đúng vào lúccăng thẳng nhất là nguyên tắc của chuyện kể dân gian buộc người nghe hômsau lại phải đến nghe tiếp. Kết thúc của hồi bao giờ cũng là một câu hỏi từchương "Chưa biết sự việc ra sao, xem hồi sau s ẽ rõ". Đây là thủ pháp nghệthuật có tính nguyên tắc và được sử dụng trong tất cả tác phẩm viết băng hìnhthức tiểu thuyết chương hình thức trần thuậtLời trần thuật của tiểu thuyết chương hồi có ưu điêm là khái quátđược một khối lượng đồ sộ sự kiện, khái quát được tính cách của nhân vật68 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_____________________________________________________________ Ạ ỉg n ỵ ê n X k ị X k u ầ nnhưng lại có nhược điểm là chưa đi được vào thế giới bên trong của nhânvật, chưa miêu ta được những mạch ngầm tâm lí phức tạp của con tran thuạt chu yeu la lơi kê cua tác giả. Khảo sát trong Tonĩ quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí chúng tôi thấy có một số hình thức trầnthuật sau Chính thuậtChính thuật hay còn gọi là thuận thuật là cách miêu tả sự vật hiện tượngở thời hiện tại, hình thức này được sử dụng chú yếu trong các tác phẩm vănxuôi Trung đại, sử kí và tiểu thuyết chương hồi. Hình thức này có ưu thế đặcbiệt trong việc diễn tả nhũng sự kiện có mối quan hệ móc xích nhau bằng quanhệ nhàn quả. Trong biên niên lịch sử, các câu chuyện tồn tại hầu như khônggắn liền với nhau. Những biến cố khác nhau được lịch sử tập hợp lại trong mộtđơn vị thời gian, có thê’ là một năm hay một niên hiệu của triều đình cai quá trình biến các cáu chuyện rời rạc nhau thành một tác phẩm thốngnhất về cốt truyện và hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật, các tác giả Trung đại dùnghình thức kể chuyện này để đào sâu mối quan hệ nhân quả giữa các sự quả của sự việc được nêu ra, sau đó tác giả đi tìm nguyên nhân để giảithích cho kết quả ấy. Các biến cố lịch sử được các tác giả của Tam quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí quan niệm như là hậu quả của một tình thếđã xảy ra từ trước, vì vậy phải bắt đầu từ xuất phát điểm cửa nó, từ đó các mốiquan hệ nhân quả được mở ra, kết thúc và lại bắt mở đầu và kết thúc rất quan trọng đối với nghệ thuật tự sự bới đổivới tác giả Trung đại, thời gian không phải là vô hạn, các tác giả cần có mộtcái khung thời gian để sắp đặt và phân bô các sự kiện. Giải thích sự vật cónghĩa là chỉ ra sự ra đời của nó, tức là chỉ ra cái băt đâu cua nó đê từ đó câutruyện tiến triển trong khoảng mở đầu và khoang kêt thuc. Ngươi đọc khôngphải suy nghĩ và phán đoán những gì xảy ra ngoài giới hạn của khung truyện,điều đó cũng có nghĩa là không có quá khứ xảy ra trước nó và cũng không cótương lai xảy ra sau nó. Lịch sử thời kì Tam quôc được bat đâu bang the chânvac thiên ha chia ba năm 208 và cuộc đâu tranh thon tinh lan nhau giưa ba69 Ảnh hưởng của Tam Oịuổc diễn nghĩa đối với Hoàng Lế nhất thống chí-7\guy ê n T k ị X k u c mnươc dân đén sự thông nhất của nhà Tấn năm 280. Với tư cách là một nhàtiêu thuyêt, La Quán Trung đã đưa người đọc ngược dòng lịch sử để lí giải sựhình thanh và tan rã của các tập đoàn chính trị quân sự Nguỵ, Thục, Ngô trongdòng chảy của lịch L ê nhất thống chí cũng bị ảnh hưởng bời cách kể chuyện này. Tôđậm sự kiện Trịnh Sâm bỏ trưởng lập thứ, tác giả coi đó chính là nguyên nhâncủa những sự kiện xảy ra sau đó. Trong phần kết thúc của câu chuyện. Lấy chủđề thống nhất đất nước nên ở hồi cuối sự kiện trong 11 năm từ năm 1793Quang Toản lên ngôi đến năm 1804 di hài Lê Chiêu Thống được mang về nướctác giả mô tả một cách qua loa để nhanh chóng đến chuyện đất nước thống chí tác giả còn ghi lại câu chuyện của nhiều năm sau năm 1860 vua TựĐức phong danh hiệu và lập đền thờ Lê Chiêu Thống và những người hầu sự kiện được trần thuật theo nguyên tấc toàn vẹn, đầu đuôi đầy đủ, thờigian khép kín theo từng Dự thuậtNhiều nhà nghiên cứu thường cho rằng trong Tam quốc diễn nghĩa vàHoàng Lê nhất thống chí không có thời tương lai. Khảo sát trong tác phẩmchúng tôi thấy rằng thời tương lai chưa trở thành một đơn nguyên tự sựnhưng cũng có thấy xuất hiện trong tác phẩm. Đó là việc tác giả đưa thuậtbói toán vào tác phẩm để tiên đoán tương lai nhân vật. Số phận của nhữnganh hùng trong Tam qu ốc diễn nghĩa gắn chặt chẽ với lời tiên đoán. Nhìncây dâu lớn, cao hơn năm trượng, trông xa như một cái tán che cỗ xe trongvườn nhà của Lưu Bị một thầy tướng đi qua nói rằng "nhà có cây dâu nàytất sinh quí tử", đó là điềm báo tridụng thuật bói toán để lừa đối phương mà Tam C Ô dien nghiữ khong CĐó là trường hợp Hữu Chỉnh lừa Quận Tạo đánh chiếm Thuận Hoá mộtcách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ những yếu tố bói toán để dự cảm tương laitrong Hoàng L ê nhất thống chí không mang tính chât thiêng liêng huyen bi71 Lượt xem 413 The narrative structures of Vietnamese novels during the period of 1986-2000 Thạc sĩ PHẠM THỊ THÙY TRANGTrường Đại học Sư phạm TÓM TẮT Kết cấu trần thuật KCTT là sự liên kết giữa các yếu tố hình thức trong một truyện kể để tạo thành một chỉnh thể tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề xây dựng KCTT liên quan mật thiết đến hình tượng người kể chuyện. Tiểu thuyết Việt Nam trong giai đoạn 1986-2000 đã cho thấy sự biến hóa linh hoạt của các hình thức KCTT nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi của nhận thức văn học và sự vận động của đời sống thời kì đổi mới sau chiến tranh. Từ khóa kết cấu trần thuật, tiểu thuyết Việt Nam. ABSTRACT The narrative structure is the link between formal factors of a narrative that forms a complete literary work. The construction of the narrative structure is closely related to the narrator. Vietnamese novels during the period of 1986-2000 demonstrate the flexible evolution of narrative structures to adapt to changes in the readers’ mindset in literacy cognition and life in the period of reforms after war. Keywords narrative structure, Vietnamese novel. xx x 1. Khái niệm kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự Có nhiều cách hiểu về kết cấu. Theo các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì “kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Kết cấu có vai trò quan trọng trong tổ chức văn bản của một tác phẩm. “Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện tất yếu và cơ bản của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhận các chức năng rất đa dạng bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [2, Cũng có quan điểm tương tự với các tác giả trên, Lại Nguyên Ân cho rằng “Kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội dung độc lập, các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả” [1, Ý nghĩa quan trọng nhất của kết cấu là tổ chức các thành phần của truyện kể tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh về nội dung lẫn hình thức. “Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [2, Theo nhà lí luận hiện đại Iu. Lotman, KCTT là một phương tiện biểu đạt và biểu hiện. Ông cho rằng mỗi truyện kể sujet đều có thể được xác định trong một kết cấu hoàn chỉnh nhất định, đó là khung “vấn đề khung – tức là vấn đề ranh giới chia tách văn bản nghệ thuật với cái không phải văn bản – luôn luôn thuộc loại những vấn đề then chốt. Cùng là những câu chữ tạo ra tác phẩm như thế, vậy mà chúng sẽ được chia thành những yếu tố truyện kể theo những cách thức khác nhau, tùy thuộc vào đường kẻ ngăn cách văn bản với cái không phải văn bản được vạch ra ở chỗ nào. Những gì nằm phía ngoài đường kẻ ấy đều không nhập vào cấu trúc của một tác phẩm cụ thể hoặc nó không phải là tác phẩm, hoặc nó thuộc một tác phẩm khác”. Và một truyện kể bao gồm hai bình diện mà ông gọi là “bình diện huyền thoại” và “bình diện cốt truyện”. “Có thể gọi bình diện mà qua đó văn bản mô hình hóa toàn bộ thế giới là bình diện huyền thoại. Bình diện thứ hai chỉ phản ánh một phần nào đó của hiện thực – gọi là bình diện cốt truyện. Cần lưu ý là có những văn bản nghệ thuật chỉ quan hệ với hiện thực theo nguyên tắc huyền thoại … Nhưng chắc chắn là không thể có những văn bản nghệ thuật chỉ kiến tạo theo mỗi một nguyên tắc cốt truyện”. Cốt truyện trong cách hiểu của chính là việc tổ chức KCTT trong một truyện kể. Và “bình diện huyền thoại hóa của văn bản được gắn chặt trước hết với khung, trong khi đó, bình diện cốt truyện lại luôn luôn có khuynh hướng phá vỡ nó. Văn bản nghệ thuật hiện đại thường được xây dựng trên sự xung đột giữa các xu hướng ấy, trên trương lực cấu trúc giữa chúng”. Ở đây có thể hiểu rằng bình diện huyền thoại cho thấy phạm vi phản ánh của văn bản so với thế giới hiện thực bên ngoài, còn bình diện cốt truyện lại có khuynh hướng kiến tạo những chỉnh thể hoàn toàn mang tính nghệ thuật dựa trên sự trình bày, sắp xếp một trật tự trần thuật, chống lại cơ chế “sao chép”, “rập khuôn” hiện thực, nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật độc lập, đa nghĩa. Ngoài ra, ông nhìn nhận “Khung của tác phẩm văn học được tạo thành bởi hai yếu tố mở đầu và kết thúc”. Trong đó, tiến trình sự kiện trong một truyện kể thực chất là sắp xếp một trật tự trần thuật để đạt được những mục đích nghệ thuật nhất định “Trong tác phẩm nghệ thuật, tiến trình sự kiện dừng lại đúng vào thời điểm trần thuật kết thúc …Điều đó thể hiện bản chất hai mặt của mô hình nghệ thuật khi phản ánh một sự kiện riêng lẻ, nó đồng thời phản ánh toàn bộ bức tranh thế giới, khi kể lại số phận bi thảm của nữ nhân vật, nó đồng thời trần thuật về trạng thái bi kịch của thế giới nói chung. Cho nên, với chúng ta, một kết cục tốt đẹp hay tồi tệ có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ chứng tỏ truyện này hay truyện kia đã hoàn kết, mà còn cho thấy cấu trúc của thế giới nói chung”. Như vậy, việc kiến tạo nên một văn bản truyện kể phụ thuộc rất nhiều vào trật tự trần thuật. Trật tự này sẽ quyết định đến ý nghĩa của tác phẩm [7, Đối với những tác phẩm tự sự cỡ lớn như tiểu thuyết thì kết cấu càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì trong khi lựa chọn một KCTT nhất định, người viết phải đồng thời mở rộng tối đa khả năng biểu hiện của nó “Mặt quan trọng nhất của kết cấu, nhất là trong các tác phẩm tự sự cỡ lớn, là trình tự của việc đưa các miêu tả vào văn bản phải khiến cho nội dung nghệ thuật luôn luôn được khai triển. Nếu trước khi văn bản chấm dứt mà hàm nghĩa đã cạn kiệt, hoặc hàm nghĩa còn chưa đủ bộc lộ – thì đó là thiếu sót của kết cấu” [1, Kết cấu có tính hình thức do luôn gắn với các yếu tố hình thức song vẫn mang tính nội dung. Xét đến cùng, cách tổ chức một kết cấu văn bản liên quan đến vấn đề người kể chuyện. Nhà văn xây dựng nên hình tượng người kể chuyện và trao quyền cho anh ta sắp xếp, tổ chức nên truyện kể. Chính anh ta sẽ quyết định thứ tự xuất hiện của nhân vật, của sự kiện, tình huống sao cho câu chuyện kể lại trở nên hấp dẫn và cuốn hút nhất. Nói cách khác, trong một văn bản truyện kể, vai trò sắp xếp, tổ chức để cấu tạo tác phẩm thường là vai trò của người kể chuyện. Truyện kể vì vậy mang tính chất hư cấu và in đậm dấu ấn của người kể chuyện. Đây là một chỉnh thể tác phẩm mang tính nghệ thuật chứ không còn là những chuyện vụn vặt, hỗn tạp của đời sống. Nhiệm vụ hàng đầu của KCTT là giải quyết mối tương quan giữa thời gian cốt truyện thời gian câu chuyện và thời gian trần thuật thời gian truyện kể theo một trật tự sau trước. Trong tác phẩm văn học, điểm mở đầu và kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở đầu và điểm kết thúc của cốt truyện. Sự so le giữa phạm vi đầu cuối của trần thuật so với cốt truyện tạo cho trần thuật những khả năng biểu hiện to lớn. Với tiểu thuyết thời kì đổi mới, người đọc khó phân định ranh giới giữa các kiểu kết cấu; khó xác định tác phẩm có kết cấu gì, nhất là khi cấu trúc truyện thường được người kể chuyện xáo tung với nhiều thủ pháp trần thuật mới mẻ. Nhưng dù ở dạng thức kết cấu nào, hầu hết các tác phẩm đều có kết thúc mở. Nhằm khẳng định tính chất không hoàn kết của đời sống, tiểu thuyết luôn hướng đến một “kết cấu vẫy gọi” nhằm phát huy tối đa khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Vai trò của người kể chuyện trong việc cấu trúc truyện kể, tổ chức thời gian trần thuật nhằm đem lại một hiệu quả trần thuật cao nhất là điều không thể phủ nhận trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 Từ sau 1975, nhất là trong thời kì đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự chi phối chung của quy luật thời bình, nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Trong tác phẩm văn học, không phải cốt truyện nào cũng chứa đựng những tình huống gay cấn với những xung đột gay gắt mà có những câu chuyện về những cái bình thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như là không có chuyện. Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở thành yếu tố thúc đẩy sự hình thành của cốt truyện. Tiểu thuyết từ sau đổi mới đa dạng hơn về nội dung phản ánh, phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn trong các cách thức dựng truyện. Bên cạnh nhữnng truyện kể giàu kịch tính là những truyện kể giàu tâm trạng. Có những kết cấu truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc, cũng có những tiểu thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Bên cạnh những tiểu thuyết tôn trọng kết cấu truyền thống là những kết cấu mang hướng hiện đại. Về đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lí giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống đương đại. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết giai đoạn này đã tiếp thu nhiều kĩ thuật mới từ văn học hiện đại thế giới. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, nghệ thuật gián cách, đa giọng điệu… là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được tiểu thuyết sử dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần dân tộc hiện đại. Trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết, có không ít tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo thể loại, như Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái… Những cây bút trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo những tiểu thuyết có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó nắm bắt, khó kể lại. Cấu trúc tác phẩm được lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn hiện thực. Ở dạng trần thuật này, người kể chuyện thường chỉ làm một thao tác là lắp ghép những mảnh rời rạc, đứt đoạn ngỡ như không liên hệ với nhau nhưng lại là những mẩu chuyện nhỏ hoàn chỉnh khi được xâu chuỗi và cùng thuộc về một câu chuyện duy nhất của chỉnh thể truyện kể. Ở nhiều tác phẩm, tính chất lắp ghép, phi tuyến tính thể hiện rõ qua sự độc lập giữa các chương với những sự kiện bị tách rời, những câu chuyện bị bỏ lửng lơ. Với lối trần thuật lắp ghép cấu trúc lập thể, việc rút gọn hoặc đảo lộn trật tự các thành phần của truyện hầu như không làm tổn hại đến kết cấu văn bản. Đây chính là một trong những kiểu kết cấu thể hiện rõ những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại. Trong nhiều tiểu thuyết, nghệ thuật lắp ghép không lộ rõ trên bề mặt văn bản với những đường biên lộ diện, mà cách cắt dán chìm vào mạch ngầm văn bản. Kết cấu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh là một ví dụ. Trong văn bản truyện kể, những diễn biến của hiện thực chiến tranh và hiện thực tâm hồn vận động không theo một trật tự nào, chỉ là những mảng ghép nối đứt quãng của hồi ức, giấc mơ và những cơn hoảng loạn của Kiên. Các sự kiện trong Nỗi buồn chiến tranh được tổ chức không theo quan hệ nhân quả, từng mảnh đời nhân vật bị chia cắt ra, bị phân tán vào kí ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc của nhân vật chính. Cốt truyện là một bức tranh lắp ghép mà các mảnh vỡ bị đảo lộn lên, bị tung ra, lật nhào toàn bộ thứ tự, vị trí ban đầu của nó. Đến đây, có cảm giác như văn học đã gần với các thủ pháp cắt xén, lắp ghép hình ảnh trong điện ảnh. Hiện tượng phân rã cốt truyện thể hiện cuộc sống trong hiện tại không phải lúc nào cũng xuôi chiều, hạnh phúc, bình yên của những con người đã trải qua chiến tranh. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài xứng đáng được coi là tác phẩm quan trọng với ý nghĩa đề xuất một tinh thần thẩm mĩ mới, một mô hình tiểu thuyết mới, phá vỡ quan niệm thể loại quen thuộc. Câu chuyện là sự lắp ghép đầy ngẫu hứng những mảnh vụn của hiện thực, không tuân theo logic nhân – quả. Ý thức cách tân nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu thuyết là nỗ lực sáng tạo đáng kể của các cây bút tiểu thuyết nhằm biểu đạt tâm hồn con người thời đại. Trong các tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh, Chim én bay Nguyễn Trí Huân, Ăn mày dĩ vãng Chu Lai, Một ngày và một đời Lê Văn Thảo, Những mảnh đời đen trắng Nguyễn Quang Lập…, các cây bút đã sử dụng thủ pháp đồng hiện thời gian và kĩ thuật dòng ý thức trong cấu trúc tác phẩm. Một trong những hình thức mở rộng giới hạn thời gian của truyện kể là đồng hiện thời gian. Với hình thức này, dòng tâm tư, quá khứ, hiện tại, tương lai đều xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục như một dòng chảy. Tổ chức thời gian đồng hiện theo kĩ thuật điện ảnh, trong một chừng mực nhất định, được xem như là chiến lược trần thuật của các tác giả, nhằm soi chiếu cặn kẽ con người hiện đại với nhiều chiều kích. Nhờ hình thức đồng hiện này, người kể chuyện có thể nối kết những chuyện thuộc về những khoảng thời gian khác nhau, rút ngắn thời gian kể. Thời gian đồng hiện xuất hiện phổ biến ở tiểu thuyết dòng ý thức, chủ yếu hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng. Kĩ thuật dòng ý thức thể hiện tham vọng của người nghệ sĩ trong việc tái hiện thế giới bên trong con người một cách chân thực. Phá vỡ trật tự thời gian thông thường, kết cấu dòng ý thức ở nhiều tiểu thuyết là hệ quả của việc tạo ra một thời gian trần thuật chỉ phụ thuộc vào thời gian tâm trạng, vào dòng tâm tư của nhân vật. Những yếu tố mang tính chất tự sự, những hành động bên ngoài được giảm thiểu nhường chỗ cho mạch cảm xúc, những suy nghĩ triền miên. Kéo theo sự trôi chảy của chuỗi kí ức và cả những mộng mị, hoảng loạn, câu chuyện cũng liên tục bị đứt quãng, dịch chuyển. Ở Việt Nam, từ lâu, kĩ thuật dòng ý thức đã góp phần làm nên những thành công trong nghệ thuật kể chuyện tiểu thuyết Nam Cao thời kì 1930 – 1945, tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu ngay trước thời kì đổi mới. Tuy nhiên, phải đến những năm sau đổi mới, kĩ thuật dòng ý thức mới được sử dụng như một phương thức trần thuật phổ quát khi đào xới tâm hồn con người, tạo nên những độ lệch của thời gian trần thuật và thời gian sự kiện. Trong Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, quá khứ đậm nhạt luôn có mặt trong hiện tại, thời gian luôn luôn chuyển động, thay đổi theo dòng hồi ức, tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu vào diễn biến tâm lí phong phú và phức tạp của nhân vật. Trong Một ngày và một đời, Lê Văn Thảo đã làm sống dậy cuộc đời của một nữ chiến sĩ biệt động vô danh bằng cách lắp ghép những mảnh vụn của quá khứ qua lời kể, trí nhớ của các nhân vật, với sự di chuyển điểm nhìn liên tục. Trong Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập, sự đan xen giữa mảng kí ức, kỉ niệm và những sự kiện hiện tại qua cái nhìn của Hoàng, Thùy Linh và những nhân vật khác tạo nên những góc nhìn đa dạng về hiện thực cuộc sống và con người ở một vùng hậu phương suốt chiều dài chiến tranh. Tiêu biểu cho những tiểu thuyết viết theo dạng thức thời gian đồng hiện và kĩ thuật dòng ý thức là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh được mở đầu bằng hành trình đi tìm hài cốt đồng đội của Kiên ở truông Gọi hồn vào mùa khô đầu tiên sau chiến tranh. Bắt đầu thời điểm này, nhà văn đã để cho dòng ý thức của Kiên trôi triền miên trong quá khứ với những hồi ức, những mộng mị về cuộc chiến, về tình yêu… Hòa bình lập lại nhưng tâm hồn Kiên thì đã ngưng bước ở những ngày tháng chiến tranh trong quá khứ. Đối với Kiên, chỉ có “kí ức tình yêu và kí ức chiến tranh” mới “giúp anh thoát khỏi cái tầm thường, bi đát của số phận anh sau chiến tranh”. Dòng ý thức tổ chức hồi tưởng, tổ chức con đường đưa nhân vật vào quá khứ. Quá khứ tồn tại song song với hiện tại, thậm chí trở thành một phần của hiện tại. Thời gian quá khứ trong tác phẩm thường là những hồi ức về chiến tranh. Kết cấu dòng ý thức thể hiện sức ảnh hưởng dài lâu của chiến tranh trong tâm linh và suy nghĩ, tình cảm và tâm lí hàng ngày của những con người đang sống, những con người đã từng trải qua những tháng năm binh lửa khốc liệt. Xu hướng lắp ghép liên văn bản cũng là một trong những yếu tố không thể không nói đến trong KCTT của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Tiểu thuyết hình thành bằng cách lắp ghép, tạo dựng các mảnh sự kiện, các mảnh tâm trạng, không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của tác giả, tạo ra “truyện trong truyện”. Những tình huống, những cảnh ngộ, biến cố như không quan hệ, liên đới xích lại gần với nhau. Cùng với sự lắp ghép đó là sự di chuyển điểm nhìn, là tư duy nghệ thuật trong sự quy ước vừa chặt chẽ, vừa co giãn của cấu trúc thể loại. Sự thâm nhập của các thể loại khác vào tiểu thuyết cũng là một nhân tố làm co giãn cấu trúc tiểu thuyết. Tiểu thuyết thời kì đổi mới có thể chứa trong nó nhật kí, chuyện kể, thư từ, thơ, “tham luận khoa học”, huyền thoại, điển tích, điển cố… Những hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo thành tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết, nới rộng cấu trúc thể loại, đa dạng hóa các phương thức trần thuật, mở rộng trường nhìn Thiên sứ, Lời nguyền hai trăm năm, Ngược dòng nước lũ, Cơ hội của Chúa…. Ở đây, tiểu thuyết giai đoạn này đã cho thấy sức ôm chứa rộng lớn và sự tự do của thể loại. “Tiểu thuyết có một khả năng điều hợp kì lạ trong khi thơ hay triết học không thể điều hợp tiểu thuyết thì tiểu thuyết lại có thể điều hợp cả thơ lẫn triết học mà không vì thế đánh mất đi cái bản sắc đặc trưng bởi chính xu hướng bao gộp vào mình những thể loại khác … có nghĩa là huy động mọi phương diện trí tuệ và mọi hình thức để soi sáng “cái điều mà chỉ có tiểu thuyết mới khám phá ra được” sự sinh tồn của con người. Đương nhiên điều đó tất phải kéo theo một sự thay đổi sâu sắc hình thức tiểu thuyết” [4]. 3. Kết luận Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới không thể không ghi nhận những cách tân về nội dung và hình thức thể hiện của các tiểu thuyết gia đương thời. Trong đó, sự thể nghiệm những kĩ thuật trần thuật mới cũng như sự mạnh dạn tạo ra những bước tiến trong kết cấu tác phẩm đã tạo nên một diện mạo mới cho tiểu thuyết, góp phần phát huy những thế mạnh vốn có của thể loại. Ở đây vấn đề không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi, lạ hóa mà còn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm đón đợi của người đọc trong tương lai. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì vậy, vừa hướng tới chủ thể sáng tạo, vừa hướng đến chủ thể tiếp nhận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Sinh chủ biên 2004, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 3. Nguyễn Thái Hòa 2006, Từ điển tu từ – Phong cách – Thi pháp học, Nxb Giáo dục. 4. Kundera M. 2009, “Ghi chép nảy sinh từ “Những kẻ mộng du””, Nguyên Ngọc – Tác phẩm tập 3, 5. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 6. Phương Lựu chủ biên 2003, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 7. Lã Nguyên tuyển dịch 2012, Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 8. Trần Đình Sử chủ biên 2007, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 9. Trần Đình Sử chủ biên 2008, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 10. Nguyễn Văn Tùng tuyển chọn 2008, Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm TP. HCM, số 166, năm 2015 Thánh Địa Việt Nam Học Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12.I. Các phương thức trần Phương thức trần thuật trong tác phẩm Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12. I. Các phương thức trần thuật. 1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện lời trực tiếp. 2. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình. 3. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình, nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật trong tác phẩm lời nửa trực tiếp. II. Phương thức trần thuật trong tác phẩm truyện. 1. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. – Thành công của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không những ở mặt nội dung mà còn ở mặt nghệ thuật. Một trong những phương diện quan trọng về mặt nghệ thuật cần được đề cập đến chính là phương thức trần thuật. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời nói của tác giả, người trần thuật. Có thể thấy phương thức trần thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện ở những điểm sau – Phương thức trần thuật được thể hiện ở ngôi kể và giọng điệu. + Người kể ở ngôi thứ ba, hóa thân vào nhân vật. + Nhịp kể chậm, giọng trầm lắng, đầy sự cảm thông, thương cảm đối với nhân vật chính. Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong nhân vật tạo ra sự đồng cảm giữa người kể và nhân tình tiết truyện liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không hề bị rối nhờ sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ. + Giọng trần thuật của truyện hòa nhập tư tưởng truyện và nội dung của từng đoạn. – Ngôn ngữ kể chuyện đậm văn hóa vùng miền, biểu hiện + Khung cảnh mùa xuân được diễn tả thật sinh động. + Cảnh xử kiện đối với A Phủ diễn ra ở nhà thống lý Pá Tra. – Phương thức trần thuật được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật. + Cách giới thiệu khéo léo, ngắn gọn mà gây ấn tượng mạnh về lai lịch của nhân vật. + Nhân vật Mỵ rất ít hành động nhưng hành động của nhân vật lặp đi lặp lại như điệp khúc. + Chân dung nhân vật được khắc họa gây ấn tượng lắng đọng cúi mặt, mặt buồn, mặt buồn rười rượi, lùi lũi,…. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở yếu tố thời gian. + Thời gian thực tế gắn liền với thời gian trần thuật đã góp phần không nhỏ trong việc khai thác diễn biến nội tâm của nhân vật. Điều này được thể hiện khá rõ ở Đêm tình mùa xuân, đêm đông Mỵ cởi trói cứu A Phủ. +Chính yếu tố thời gian này giúp người đọc dễ dàng nhận ra câu chuyện được kể theo phương pháp lắp ghép với một trình tự nhất định cho phép nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở sự tương tác giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật. + Giới thiệu nhân vật. + Miêu tả chân dung. + Ngoại cảnh tái hiện tâm trạng nhân vật. + Đối thoại, độc thoại. 2. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. – Tác phẩm “Vợ nhặt”, ngoài cách xây dựng tình huống truyện độc đáo thì phương thức trần thuật của Kim Lân cũng không kém phần hấp dẫn. Có thể nói nghệ thuật kể chuyện tự nhiên mà hấp dẫn. – Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị mà chặt chẽ. Kim Lân đã chọn phương thức trần thuật khách quan theo tâm lý nhân vật + Mở đầu tác phẩm là cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. + Trong sự ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ. + Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất tự nhiên hấp dẫn. Có thể nói dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn vào việc biểu hiện ý nghĩa nhân văn của tác phẩm Cuộc sống khủng khiếp đến mức khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở thành hiện thực. – Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng. Do đó tạo được sức gợi đáng kể. 3. Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Phương thức trần thuật trong tác phẩm thể hiện qua một số khía cạnh sau – Cốt truyện Truyện “Rừng xà nu” có 2 câu chuyện đan cài vào nhau Chuyện về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô-Man. + Câu chuyện được kể như là một hồi tưởng trong một đêm Tnú được nghỉ phép về thăm làng. Đây chính là hồi tưởng của cụ Mết và hồi ức của Tnú. Tiếng cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. Bỗng nhiên ông cụ nói to lên Tnú không cứu được vợ con. Tối đó Mai đứa con thì đã chết lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại… + Chuyện đời Tnú được cụ Mết kể bên bếp lửa nhà ưng cho dân làng nghe. – Quan điểm người kể chuyện có sự đan xen giữa quan điểm tác giả và quan điểm nhân vật + Đoạn mở đầu kể theo quan điểm của tác giả. + Phần sau tác giả trao quyền kể lại cho nhân vật cụ Mết, cụ Mết đã kể lại toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. – Cách kể trang trọng như muốn truyền cho các thế hệ con cháu những trang sử thi oai hùng của cả cộng đồng trong những ngày Đồng Khởi “Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết đứa chưa rõ. Còn lũ con nít thì chưa biết… Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó… anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó… Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…”. – Giọng trần thuật gợi nhớ lối kể “khan” trường ca của các dân tộc Tây Nguyên. + Bên bếp lửa dưới mái nhà ưng. + Câu chuyện của Tnú là chuyện thời hiện đại nhưng vẫn được kể như câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng qua một “khoảng cách sử thi” đối với những con người và sự kiện được kể lại. – Điều đó đã thể hiện chất sử thi hùng tráng của câu chuyện. + Nghệ thuật xây dựng truyện “Rừng xà nu” là một truyện ngắn nhưng có sức chứa như một bản trường ca về chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên được viết khoảng mươi trang bằng nghệ thuật độc đáo. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. – Rừng xà nu có hai câu chuyện lồng vào nhau, với nhiều tình tiết, sự kiện được diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài. Để dồn chứa một dung lượng khá lớn như vậy vào một truyện ngắn, tác giả đã lựa chọn cách kể hợp lí câu chuyện của một đời người, một làng được kể kể trong một đêm, qua lời kể của một già làng. Cách kể chuyện ấy rất thích hợp với nội dung và tính chất của truyện, lại gợi liên tưởng đến cách kể khan của các dân tộc Tây Nguyên. Đây cũng chính là một đặc điểm về nghệ thuật tự sự, yếu tố quan trọng tạo nên thành công tác phẩm. – Ở phần đầu và cuối truyện là thời gian hiện tại gắn với sự việc Tnú về thăm làng chỉ trong một đêm và sáng hôm sau lại ra đi. Phần giữa, cũng là phần chính của truyện, chủ yếu tái hiện lại những sự việc thuộc thời gian quá khứ. Nhưng đôi lúc mạch kể lại quay lại quay lại hiện tại bằng việc miêu tả cảnh dân làng nghe cụ Mết kể về chuyện Tnú, cùng những lời trực tiếp của cụ Mết, của Tnú. Cách phối hợp các lớp thời gian như vậy làm cho truyện mở ra được nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện được cả một giai đoạn lịch sử trong một dung lượng câu chữ không lớn cua một truyện ngắn. Đồng thời lại kéo gần quá khứ về với thời gian hiện tại, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể, sinh động về những sự việc và con người được kể như đang hiện diện trước mắt. – Phù hợp với thời gian như trên, truyện sử dụng phối hợp điểm nhìn của hai người kể chuyện người kể chuyện ở ngôi thứ ba vô hình và người kể là cụ Mết. Trong phần chính của truyện, lời kể ở ngôi thứ ba lại nương theo câu chuyện về Tnú do cụ Mết kể cho dân làng nghe, xen kẽ với những lời trực tiếp của cụ Mết. Lời cụ Mết thường chỉ để khởi đầu cho mỗi chặng, dẫn mạch kể ở những biến cố tạo bước ngoặt. 4. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. – Với tác phẩm Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã chọn phương thức trần thuật men theo dòng hồi tưởng của nhân vật Việt – một chiến sĩ trẻ bị thương nặng trên chiến trường, bị lạc đồng đội, nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Nghĩa là tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật tự kể, dựa theo điểm nhìn của nhân vật. – Chọn cách trần thuật này vừa thể hiện sự sáng tạo về hình thức nghệ thuật vừa góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. + Thứ nhất, vì câu chuyện được kể theo những kí ức chợt đến chợt đi, nhớ chuyện này lại xen lẫn chuyện kia nên trật tự kể bị xáo trộn. Vách ngăn giữa các khoảng thời gian quá khứ và hiện tại dường như bị cất bỏ. Song câu chuyện vẫn rõ ràng mạch lạc. Người đọc không chỉ cảm nhận được một nhân vật Việt mà còn cảm nhận cả truyền thống gia đình nông dânNam bộ. Đó là chú Năm, ba má, chị Chiến và cả đồng đội của Việt nữa. Tỉnh dậy lần thứ nhất, Việt bò đi tìm đồng dậy lần thứ hai, trời mưa, tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ chuyện soi ếch “…bao giờ chú Năm cũng qua”. Thế là Việt nhớ về chú Năm và cuốn sổ gia đình. Lần ba, Việt nghe tiếng trực thăng, tiếng súng nổ, anh nhận ra mình đã ba ngày nằm tại chiến trường. Nghe tiếng cu gù gù, chiếc ná thun hiện về, gợi anh nhớ những kỉ niệm về người mẹ bao dung, vị tha, khổ đau, hiên ngang, bất khuất. Lần thứ tư, mẹ vẫn còn thoảng trong đầu…mưa làm Việt tỉnh hẳn, nhận ra mình đơn độc. Việt sợ ma. Súng nổ âm ĩ, Việt nhớ anh Tánh và đồng đội. Việt cố bò đi về phía tiếng súng nhưng cũng không khó bằng chuyện hai chị em dành nhau đi tòng quân… Câu chuyện thật hợp lí, lôgic. + Thứ hai, khi để cho nhân vật tự kể, câu chuyện trở nên hấp dẫn, chân thực về những đứa con trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Việt vừa là anh giải phóng quân gan dạ, dũng cảm vừa là cậu thanh niên còn rất trẻ con, vô tư… + Thứ ba, nhà văn để nhân vật tự kể, trang văn đậm chất trữ tình. Đời sống nội tâm của nhân vật được khai thác triệt để vừa cụ thể vừa tinh tế, phức tạp… + Thứ tư, nhân vật được đặt trong một tình huống đặt biệt đơn độc giữa chiến trường, đối diện với cái chết, đối diện với chính bản thân mình, Việt đã nghĩ nhiều nhất đến những người thân trong gia đình. Bởi gia đình là nguồn cội, là cứu cánh, là chỗ dựa tinh thần để con người vượt qua những trở lực của nghịch cảnh để hướng về phía trước. Qua đó nhà văn khẳng định sự gắn bó giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của con người ViệtNam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. – Nhờ những lợi thế của cách trần thuật như đã nói trên, câu chuyện về đề tài chiến tranh đã thể hiện rõ tài năng nhiều mặt của Nguyễn Thi. Và tác phẩm Những đứa con trong gia đình trở thành tác phẩm xuất sắc. – Tác dụng của phương thức trần thuật này + Làm cho câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn. Tác phẩm đậm chất trữ tình, tự nhiên vì được kể bằng con mắt, tấm lòng và ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật. + Tạo điều kiện cho nhà văn thâm nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. + Diễn biến câu chuyện linh họat, không phụ thuộc vào trật tự thời gian tự nhiên, có thể xáo trộn không gian với thời gian, từ những chi tiết ngẫu nhiêncủa hiện thực chiến trường mà gợi nên những dòng hồi tưởng, liên tưởng phong phú , bất ngờ song vẫn hợp lý quá khứ khi gần, khi xa, chuyện này bắt sang chuyện nọ… → Trần thuật theo dòng hồi tưởng khiến câu chuyện về Những đứa con trong gia đình vốn được hình thành từ chuỗi những chuyện tưởng chừng như rời rạc, vụn vặt …à trở nên mạch lạc, sáng rõ. Các nhân vật hiện lên vừa cụ thể rõ nét; vừa tiêu biểu cho những thế hệ người nông dân Nam Bộ và cho cả dân tộc ta trong kháng chiến chống ngoại xâm… 5. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. – Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống nhìn từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác sau 1975. Sở dĩ tác phẩm có được thành công ấy không chỉ ở nội dung sâu sắc mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc sáng tạo tình huống truyện mang tính chất khám phá phát hiện kết hợp với việc xây dựng những hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa, đặc biệt làm nên sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là phương thức trần thuật. Phương thức ấy được thể hiện cụ thể ở tác phẩm qua những yếu tố sau – Chọn ngôi kể điểm nhìn trần thuật thích hợp. – Câu chuyện được kể qua sự phát hiện và cảm nhận của nhân vật Phùng. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh được cử đi thực tế để chụp một bức ảnh thuyền và biển cho bộ lịch nghệ thuật. + Sau nhiều ngày “phục kích” anh đã chụp được một cảnh thuyền và biển tuyệt đẹp. Thế nhưng, ngay liền sau đó anh lại chứng kiến một bi kịch trên con thuyền đó cảnh người đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, đứa con thương mẹ sẵn sàng đánh bố… Ba ngày sau Phùng lại chứng kiến cảnh tượng trên một lần nữa. + Sau đó tại tòa án huyện, qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng nhận thức được bao nghịch lí của đời thường, về thân phận của con người, về những mặt khuất lấp của đời sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời… – Cách chọn ngôi kể và điểm nhìn nghệ thuật như trên đã làm cho câu chuyên trở nên chân thực, gần gũi, tự nhiên, tạo được sự đồng cảm ở người đọc, đồng thời qua Phùng – nhân vật tư tưởng – nhà văn gián tiếp bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình. – Giọng điệu trần thuật biến đổi linh hoạt theo diễn tiến tình tiết giàu kịch tính. Sau đây là một số tình tiết trong phần đầu câu chuyện + Tình tiết 1 Khi nghệ sĩ Phùng sau giây phút thăng hoa của tâm hồn như “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, lại bất ngờ chứng kiến một cảnh hoàn toàn trái ngược. Giọng điệu trần thuật biến đổi diễn tả khoảnh khắc bừng ngộ trước sự thật nghiệt ngã “ngay lúc ấy…”, “bất giác tôi nghe…” để rồi sau giây phút bàng hoàng, khi chứng kiến cảnh tượng lão đàn ông đánh vợ, người nghệ sĩ đã “kinh ngạc”. “Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt chiếc máy ảnh chạy nhào tới”. + Tình tiết 2 Sau khi đánh vợ, lão đàn ông bỏ đi, người mẹ vừa đau đớn vừa nhục nhã, xấu hổ, bà đã ôm chầm lấy đứa con “rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Còn đứa con lúc này “chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Thế rồi “bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền” trả lại cho bãi biển vẻ hoang sơ muôn thưở của nó. Và “như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”. – Cách thức trần thuật như trên đã làm cho câu chuyện sinh động và hấp dẫn bởi các tình tiết được diễn ra liên tiếp nhau, li kì, giàu kịch tính, lôi cuốn người đọc thêm tò mò, muốn khám phá tiếp những bí ẩn của câu khác, giọng điệu trần thuật ở đây còn khơi gợi ở người đọc những cảm xúc, những suy tư sâu lắng về sự thật đa diện, muôn màu của cuộc đời. Bên cạnh những loại câu quen thuộc như câu mệnh lệnh, câu cảm thán, câu trần thuật Declarative tưởng chững đơn giản những lại là một loại câu quan trọng mà bất cứ người học tiếng Anh nào cũng cần nắm chắc. Tất tần tật kiến thức cần biết về câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh Vậy câu trần thuật là gì? Câu trần thuật dùng để làm gì và nó được sử dụng trong câu như thế nào? Hãy cùng IELTS LangGo tìm hiểu về câu trần thuật trong bài viết ngày hôm nay và áp dụng ngay lý thuyết vào bài tập thực hành nhé! 1. Khái niệm câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh Câu trần thuật Declarative sentence là một trong bốn kiểu câu trong tiếng Anh, cùng với câu nghi vấn, câu cảm thán và câu mệnh lệnh. Mỗi loại câu có chức năng riêng; trong đó chức năng của câu trần thuật là cung cấp thông tin về một sự kiện bất kỳ cho người khác biết. Bất cứ khi nào bạn đưa ra một sự thật, ý kiến, quan sát hoặc giải thích một cách trực tiếp, bạn đang sử dụng câu trần thuật. Ví dụ về câu trần thuật My friend can speak Spanish fluently. Bạn tôi có thể nói tiếng Tây Ban Nha thành thạo. → Đây là câu trần thuật dùng để truyền đạt thông tin rằng bạn của người nói có thể nói thành thạo tiếng Tây Ban Nha. Giống như hầu hết các kiểu câu khác, câu trần thuật cần có đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ. Chủ ngữ là danh từ thực hiện hành động của câu, trong khi vị ngữ chỉ đơn giản là động từ thực hiện hành động. Khi kết hợp với nhau, chủ ngữ và vị ngữ tạo thành một mệnh đề độc lập. Cần lưu ý rằng câu trần thuật luôn kết thúc bằng dấu chấm. Giải đáp câu trần thuật là gì? Như đã nói ở trên, mỗi câu trần thuật cần có ít nhất một mệnh đề độc lập, mệnh đề này phải có chủ ngữ và vị ngữ. Tuy nhiên, câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh cũng có thể có nhiều hơn một mệnh đề độc lập, hoặc một mệnh đề độc lập kết hợp với một mệnh đề phụ thuộc. Có bốn loại câu trần thuật khác nhau, tùy thuộc vào số lượng mệnh đề trong câu và chúng thuộc loại nào. Dưới đây là 4 dạng câu trần thuật bạn có thể bắt gặp thường xuyên khi làm bài tập. Câu đơn Simple sentence Câu đơn là câu chỉ có duy nhất một independent clause mệnh đề độc lập. Ví dụ My parents traveled to New York. Bố mẹ tôi đã đến New York. Câu ghép Compound sentence Câu ghép là câu có từ hai mệnh đề độc lập trở lên. Các mệnh đề thường được kết nối bằng một FANBOYS for, and, nor, but, or, yet. Ngoài ra, bạn có thể nối các mệnh đề độc lập chỉ bằng dấu chấm phẩy. Ví dụ My parents traveled to New York, and they visited Time Square. Bố mẹ tôi đã đến New York và họ đã tham quan Quảng trường Thời đại. Câu phức Complex sentence Câu phức là câu chứa 1 mệnh đề độc lập và một hoặc có thể nhiều hơn mệnh đề phụ thuộc dependent clause. Nếu mệnh đề độc lập đứng sau mệnh đề phụ thuộc, hãy sử dụng dấu phẩy. Ngược lại thì không cần dấu phẩy giữa 2 mệnh đề. Ví dụ If I wear my glasses, I can see things clearly. Nếu tôi đeo kính, tôi có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng. Câu ghép phức hợp Compound - Complex sentence Câu ghép phức hợp là câu có từ hai mệnh đề độc lập trở lên và tối thiểu một mệnh đề phụ thuộc. Chúng tuân theo các quy tắc của cả câu ghép và câu phức. Ví dụ If I look into the sky, the cloud look gray, and the flock of birds is immigrating to the South. Nếu tôi nhìn lên trên bầu trời, những đám mây trông xám xịt và đàn chim đang di cư về phương nam. 2. Cấu trúc câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh Câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh được chia thành 2 dạng Dạng khẳng định positive và Dạng phủ định negative. Cùng tìm hiểu công thức của hai dạng câu trần thuật trong phần dưới đây nhé. Dạng khẳng định Câu trần thuật dạng khẳng định là câu mang ý nghĩa đưa ra sự khẳng định về một sự việc, sự vật. Đây là dạng câu được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Anh. Công thức của câu trần thuật dạng khẳng định S + V + O Ví dụ I usually go to be at 11 o’clock. Tôi thường đi ngủ lúc 11 giờ tối. I ran into my old friend yesterday. Hôm qua tôi tình cờ bắt gặp người bạn cũ. It’s rainy today. Hôm nay trời mưa. Dạng phủ định Câu trần thuật dạng phủ định là câu có ý nghĩa phủ định những hành động, sự việc đang được đề cập tới. Đơn giản hơn câu phủ định là loại câu cho biết một điều gì đó đã không xảy ra. Câu trần thuật dạng phủ định có công thức như sau S + trợ động từ + not + V + O Để biến đổi câu trần thuật dạng khẳng định thành câu trần thuật dạng phủ định bạn chỉ cần thêm “not” vào sau trợ động từ hoặc sau động từ. Tuy nhiên, cách thêm “not” khác nhau với những thì khác nhau Trường hợp 1 Câu trần thuật ở thì hiện tại đơn Với thì hiện tại đơn present simple bạn cần thêm "not" vào sau trợ động từ "do/does", đồng thời chuyển động từ về dạng V-inf động từ nguyên mẫu. Ví dụ I don’t like fried chicken. Tôi không thích gà rán. He doesn’t go to school on Monday. Anh ấy không đi học vào thứ Hai. Cấu trúc câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh Trường hợp 2 Câu trần thuật ở thì quá khứ đơn Với thì quá khứ đơn past simple để tạo câu phủ định bạn chỉ cần thêm "not" vào sau trợ động từ "did" và chuyển động từ về dạng V-inf động từ nguyên mẫu. Ví dụ Last summer, she broke up with her boyfriend. Mùa hè trước, cô ấy chia tay với bạn trai. Andy didn’t like traveling alone. Andy không thích đi du lịch một mình. Trường hợp 3 Câu trần thuật với các thì còn lại Với các thì còn lại như thì hiện tại tiếp diễn, tương lai đơn, … bạn chỉ cần thêm "not" vào sau trợ động từ tương ứng. Ví dụ He hasn’t met this woman before. Anh ấy chưa từng gặp người phụ nữ này trước đây. Sarah won’t change her mind. Sarah sẽ không thay đổi suy nghĩ đâu. Trường hợp 4 Câu trần thuật có động từ khuyết thiếu can, could, ought to, should, may, might,… Khi trong câu có xuất hiện động từ khuyết thiếu ta chỉ cần thêm "not" vào sau động từ khuyết thiếu đó. Ví dụ I can’t afford that car. Tôi không đủ tiền để mua chiếc xe kia. She shouldn’t eat a lot of junk food. Cô ấy không nên ăn nhiều đồ ăn nhanh. Trường hợp 5 Nếu trong câu xuất hiện các từ phủ định như hardly, barely, scarcely, almost nothing, almost, not at all thì ta có thể không cần thêm “not” vào sau trợ động từ. Ví dụ I hardly ever play basketball. Tôi hầu như không bao giờ chơi bóng rổ. My teacher barely remembers all students in my class. Giáo viên hầu như không nhớ hết thành viên trong lớp tôi. Trường hợp 6 Câu trần thuật dạng phủ định sử dụng “no” + N danh từ Ví dụ There is no wine left. Không còn chút rượu nào. 3. Bài tập luyện tập 1. Chia động từ trong ngoặc ở dạng thích hợp 1. Shaun _________ love to watch movie with his friends. 2. Jane ________ not, can recall where she lived. 3. The English _______ rule and ________ oppress the half of the world for about two hundred years. 4. I ________ send a letter just a few minutes ago. 5. My family _________ live in Vietnam for 10 years. 6. Up to now, Harry ___________ do good work in the class. 7. She ________ put her books in the desk last night. 8. We _______ talk about terrible accident near out school since we came home. 9. They ________ not, eat meat since they saw a movie about farm animal. 10. Last week we _______________ go to Hungary for a holiday. We _______________ stay there for five days. 11. Clara loves traveling. She __________________ visit many countries in Europe. 12. I ______________ play volleyball yesterday morning. 2. Xác định câu trần thuật trong những câu sau. Nếu là câu trần thuật hãy điền True, nếu không phải câu trần thuật hãy điền False. 1. The children are going to school. 2. What a lovely dog! 3. My mother called to wish me good luck. 4. Please don’t judge people on appearance. 5. She is the best student in our class 6. Please keep silence. 7. Submit the assignment by 12am tomorrow. 8. I am washing my car. 9. Is she the most famous singer in your country? 10. The children love humberger. 11. Do the children need longer recess period? 12. Harry purchased a new motorbike. 13. Get out of my house! Đáp án 1. 1. loves 2. couldn’t 3. ruled, oppressed 4. sent 5. has lived 6. has done 7. put 8. has talked 9. haven’t eaten 10. went, stayed 11. has visited 12. played 2. 1. True 2. False 3. True 4. False 5. True 6. False 7. False 8. True 9. False 10. True 11. False 12. True 13. False Như vậy trong bài viết này IELTS LangGo đã giới thiệu đến bạn định nghĩa và công thức và tác dụng của câu trần thuật Declarative trong tiếng Anh. Hy vọng lý thuyết và bài tập luyện tập trên đây đã giúp bạn sử dụng thành thạo câu trần thuật. Đừng quên hoàn thành bài tập luyện tập ở cuối bài viết nhé! Đọc thêm các bài viết hữu ích khác tại Grammar để nâng trình tiếng Anh.

các phương thức trần thuật